patthana.com sannhien.com.au daiphatthu.com

Tài liệu buổi học
patthana.com xin tri ân cô Hồ Thị Vui chép lại lời giảng của Sư Sán Nhiên.
Lớp Phát Thú 8

16/04/2022

Sư nói tiếp qua phần Phát Thú, những ý nghĩa quan trọng cần nắm bắt được cho việc nghiên cứu của mình.
Hôm nay Sư nói phần Đại Phát Thú, quyển I, trang 47
Nói tới Phát Thú có 13 điều chúng ta cần lưu ý, từ mỗi điều đó nó được phổ biến, được thể hiện trong các duyên, trong 24 duyên của chúng ta đã biết qua, ở phần đầu Duyên Sinh – Duyên Hệ.
Sư đánh dấu hoa thị. Nếu sách của mình thì đánh số cho dễ nhớ.
Chúng ta cần biết tới công năng hay kỹ thuật của phần Phát Thú Đức Phật Ngài dạy mà chúng ta cần phải lưu ý tới.
Như lúc đầu ta học Phát Thú là ta học phương pháp Đức Phật khi Ngài còn là Bồ Tát trên con đường tìm Đạo để giải thoát cảnh khổ sinh tử luân hồi của Ngài, Ngài đi tìm công phu lắm, khi tìm ra được, Ngài đem Pháp/ phương pháp mà Ngài tìm ra được cúng hiến cho người mẹ thương yêu của Ngài trên cung trời tục sinh 7 ngày sau khi Bồ Tát ra đời mẹ Ngài mất. Ngài đem Pháp mà Ngài tìm ra được cúng hiến cho mẹ và chư Thiên được hưởng phước phần pháp bảo này.
Chúng ta quy ước nhau, khi học Phát Thú ta không động chạm tới người. Ta chỉ lo tu thôi. Do đó, người thực sự muốn học với giáo pháp của Đức Phật cầu sự giải thoát không muốn sanh tử luân hồi khổ đau thích hợp cho Phát Thú này. Ở đây chỉ hướng dẫn, chia sẻ những pháp nào rốt ráo đến sự giải thoát thôi. Chứ không để mình phải khổ. Nếu mình biết cách vận dụng.
Những pháp mà chúng ta được học, được nghe, chia sẻ trong Phát Thú là những công thức, là những phương pháp mà cấu trúc Ngài tìm ra. Khi chúng ta học được phần Phát Thú này là phước lớn lắm.
Sư đem tâm huyết hướng dẫn quý Phật tử học lớp Phát Thú này là Sư cống hiến tại vì Sư cũng thọ ơn những gì quý Phật tử giúp đỡ cho Sư trong con đường tu tập, và đang trải nghiệm những năm tháng qua.
Sư cũng đem những tri kiến mình học được về phần Phát Thú này cống hiến lại cho quý Phật tử, nên quý Phật tử hoan hỷ.
Khi quý Phật tử học Phát Thú, chúng ta soi rọi mình thôi, đừng đem tâm soi mói chuyện này chuyện kia, ở nơi khác của bên ngoài. Bây giờ tuổi đời, tuổi thọ, phước báu của mình may mắn gặp được Chánh pháp mà mình được học thế này là mình hết sức tận dụng Pháp Bảo này làm tư lương, vốn liếng trên đường mình đi để tu học giải thoát, chứ không đụng chạm ai hết. Sư xin quý Phật tử có tâm huyết chỉ cầu giải thoát sẽ thích hợp với bộ môn này, với lớp học này.
Mình có phước là mình có sách trong tay, mình được học và có người hướng dẫn để nghiên cứu, đó là phước báu mình phải tận dụng để khai thác điều lợi ích đó cho mình.
Tại sao Sư đánh hoa thị? Cho quý Phật tử muốn nghiên cứu là phải đánh con số, Sư không đánh con số. Khi quý Phật tử đánh số, quý Phật tử có sự ghi nhớ.
Có 13 pháp:
1- Kattupada: Trình bày đến người tạo tác ( người thực hiện) : Đức Phật nói cái này có Nhân có Quả, Ai tạo tác, ai thực hiện người đó lãnh lấy thọ lấy kết quả những hành động của mình.
2- Kammapada: Trình bày đến người bị tạo tác (người bị thực hiện): đó là nếu nói theo chế định và nếu nói theo Siêu Lý là Năng Duyên (Người tạo tác) – Sở Duyên (Người bị tạo tác).
3- Karanapada: Trình bày đến nguyên nhân cho thành tựu việc tạo tác (thực hiện): Mãnh lực đưa đến cho sự tạo tác được hiện bày. Ở đây chưa nói về mãnh lực về Duyên, nó sẽ được diễn bay trong lớp thứ ba
4- Sampadānapada: Trình bày đến người tiếp dẫn (nhận và trao) việc tạo tác: Sau khi Năng Duyên và Sở Duyên hiện bày đủ 2 tác nhân sẽ đưa đến kết quả sự hiện bày 2 mãnh lực đó, Năng tạo ra Sở, Sở hiện bày hành động của thiện nghiệp ác, thiện nghiệp, hay bất thiện nghiệp, hay ác nghiệp nó sẽ hiện bày lãnh vực đó. Phần đó quý Phật tử sẽ đối chiếu qua Quyển II, Chương V. Nói về vấn đề Mãnh lực tạo tác như nghiệp báo.
5- Apādānapada: Trình bày đến tình trạng chỗ tách lìa khỏi, trình bày đến việc làm cho (Tam Tướng) hiện bày lên rõ ràng: Cho dù người tạo tác, người bị tạo tác, sự thành tựu cũng như nguyên nhân dẫn đến sự tạo tác, tất cả những cái đó nó không thoát ra khỏi được Tam tướng (Vô thường, Khổ Đau, Vô Ngã). Khi mình học được phần này, mình có nhận thức là cho dù mình có tạo ra bao nhiêu, mình hưởng không bao nhiêu, mãnh lực của Tam Tướng nó vẫn xen kẽ vô, chi phối làm con người mình đi theo mãnh lực đó. Có những người bác sĩ, ở nước Mỹ này, họ cả cuộc đời lao vào cuộc sống đi học khi còn trẻ, khi ra trường họ dấn thân nghề y khoa, phục vụ nhân loại chữa bệnh cho các bệnh nhân. Tới khi 65-66 tuổi họ nghỉ ngơi thì vừa nghỉ ngơi hôm nay, hôm sau họ mất. Họ gầy dựng để họ hưởng thì chưa kịp đã đột quỵ ra đi.
Khi mình học về lộ trình Danh pháp (nāmavīthi – cittavīthi/ Lộ trình Tâm) – Chương IV Tổng hợp nội dung Vô Tỷ Pháp chúng ta sẽ biết thực tướng vô thường (anicca lakkhaṇā) Nó sanh diệt và thay đổi liên tục, không đứng. Nếu những người hành về Quán Tâm, theo dõi kiểm soát tâm mình sẽ thấy tâm ta sanh diệt liên tục, sát na này tới sát na sau là tâm ta thay đổi rồi.
Còn khi ta học Duyên Sinh – Duyên Hệ (Paccayanaya) thì chúng ta học được tính chất Vô Ngã (Anattalakkhana – Vô Ngã Tướng). Duyên nó sanh vô, hợp tác, rã ra, không hiện bày một pháp nào cả.
Do đó 2 cái này mình sẽ thấy: Muốn biết về Vô Thường thì kiểm soát về Tâm; Muốn biết về Vô Ngã thì kiểm soát mối Duyên hệ của duyên thì chúng ta sẽ thấy rõ được.
6- Sāmīsambandhapada: Trình bày đến người thành chủ nhân.
Khi chúng ta thấy chức năng chủ nhân nó hiện hữu hiển lộ ra thì ta mới thấy nó không phải là ta, mà đó là pháp. Thí dụ, trong phần tâm Tham với cảnh ưa thích/ cảnh duyệt ý, vừa lòng mình, lúc tâm tham hiện lên, có cảnh duyệt ý là đối tượng nó điên cuồng trong đó. Cái đó, nó đang là chủ nhân của mình rồi. Nó đang thống trị con người của mình, nó lôi kéo, sai khiến con người mình thành tên nô lệ. Quý Phật tử thấy cái đó mới giật mình. Mình cứ nói “Tôi, ta” chứ thực ra không phải vậy. Quý Phật tử nghe kịp không? Quý Phật tử mở trang 50: “Điều này như thế nào, thì Nhân Tham sanh khởi đến người nào thì Pháp tương ưng là Tâm và Tâm Sở Tham cùng với Sắc Tâm Bất Thiện thường là sẽ khởi sanh đến người đó. Và khi Tâm Tham này đã sanh khởi rồi thì thật khó mà buông bỏ được, cũng ví như rể cây giữ lấy cổ thụ cho được tồn tại một cách vững vàng, và có khả năng sẽ làm cho Tâm Ý của người ấy sẽ khởi lên trạng thái tham đắm, dẫn đến nguyên nhân làm cho phát sanh Thân Biểu Tri tạo tác Thân Ác hạnh như là việc trộm đạo, v.v, hoặc làm cho phát sanh Ngữ Biểu Tri tạo tác Ngữ Ác hạnh như là việc vọng ngữ, v.v, cũng ví như cổ thụ được tươi tốt phát triển do nương vào gốc rễ của cây vậy.”
Khi mình coi kỹ được tất cả mãnh lực tạo tác, thì mình không có hiện hữu, thật sự là Vô Ngã. Tham nó dẫn đi, Sân nó dẫn đi, Si nó dẫn đi. Lúc đó Tâm của mình cuốn vô đối tượng cảnh thì mất đi bản ngã Tôi, Ta, mà mình không hay biết. Quý Phật tử nhìn một người sân lên, họ không kiểm soát được.
Có ông đó có thói quen/ tập khí, trong gia đình, khi ông sân lên, cái gì trong tay, gần kế bên ổng ổng lấy ổng liệng hết. Bữa ông mới đi ra chợ về, ông mua bình thủy, ông thích bình thủy châm nước sôi, để kế bên, giận vợ, quăng hết đồ rồi, chụp cái bình thủy “bình này mới mua về liền” để xuống.
Cái đó mình mới thấy cảnh nó không làm chủ, nhưng mãnh lực của duyên nó thúc đẩy, đưa đến tâm của mình không kiểm soát được, mất đi bản năng của Tôi, Ta thì lúc bấy giờ mình mất đi vị trí của mình đi.
7- Kālādhārapada: Trình bày đến thời gian.
Khi ta nói mốc thời gian, nó có những mãnh lực tạo tác thời bình nhật thôi, pavatti, thời chuyển khởi thôi, chứ nó không ảnh hưởng trong thời quá khứ, mà không có ảnh hưởng trong vị lai.
8- Kiriyāvisesanapada: Trình bày đến việc làm cho (Tam Tướng) hiện bày lên rõ ràng.
Khi học tới phần Duyên Sinh – Duyên Hệ hay Phát Thú nói đi nói lại nhiều phần Tam Tướng lắm. Tinh hoa Phật giáo có 4: Vô Thường – Khổ Đau – Vô Ngã – Niết Bàn. Chỉ có như thế thôi. Nên nhiều khi Sư đắn đo lắm, có thời gian Sư ẩn sĩ, Sư không đi giảng dạy Sư muốn chiêm nghiệm Pháp, thưởng thức vị Pháp trong cuộc đời mình tu tập Sư hoan hỷ lắm. Nếu nói ra Pháp mà mình học rốt ráo, người thiệt sự thẩm thấu, thưởng thức được pháp vị, mình nhàm chán thế gian này lắm, thì mình đi tới con đường phải đi xuất gia, thoát ly liền, không hiện hữu trong đời này được đâu. Ở trong đời này, mình miễn cưỡng, khó chịu lắm, không có gì an lạc cho mình được lâu dài hết.
9- Kiriya-ākhayātapada: Trình bày việc tập hợp vấn đề trong từng Câu để thành mỗi loại (được ví như vị chủ đất nước).
Tất cả trong các câu (pada) của Phát Thú, thí dụ: Pháp Thiện làm duyên cho Pháp Thiện; Pháp Thiện làm duyên cho Vô Ký, … mỗi câu nó đều có nói lên chủ thể của nó mà mình thấu hiểu được các chủ thể của tất cả câu. Thí dụ phần Thiện làm duyên cho pháp Thiện, chủ thể là Thiện, Thiện nào? Thiện bên Năng hay bên Sở, kết quả liên hệ với nhau. Thì chúng ta sẽ thấy mỗi cái nó toát hiện ra tất cả chức năng, vị trí của nó hết cả.
Khi nói tới cái Thiện của Năng thì chức năng của nó, không ai xen kẽ vô được, nó như là chủ đất nước. Khi nó hiện bày không có mãnh lực pháp nào có thể cắt đứt, xen kẽ hay chi phối hay tác động được nó hết. Do đó, chúng ta sẽ thấy cái đó rất quan trọng. Khi chúng ta hiểu chức năng đọc quyền của nó, nó là chủ vị thì phải coi lại câu 1 và câu 2 là cẩn thận vấn đề tạo tác và bị tạo tác, nếu mình làm được 2 cái này, xuống đây mình sửa lại không kịp nữa. Muốn biết được thì phải ngừa ngay từ đầu.
“Bồ Tát sợ Nhân, chúng sanh sợ Quả” Người có ý thức giác ngộ họ ngăn ngừa từng cái tác nhân, họ ngăn ngừa từng cái nguyên nhân, họ ngăn ngừa từng cái mãnh lực để tạo tác ra hành động thân ngữ ý. Đối với chúng sanh phàm phu họ không nghĩ tới chuyện đó, họ cứ tạo tác.
Bài Phát Thú thứ 2, thứ 3 quý Phật tử coi lại, thì thấy: Chúng sanh Phàm Phu họ làm từ Vô Minh duyên Hành; Nhưng Bồ Tát từ Sanh, Già, Bệnh, Chết đi ngược lên. Thấy cái già là họ thức tỉnh rồi, thấy cái Bệnh là họ thức tỉnh rồi, thấy cái Chết là họ thức tỉnh rồi, và họ bắt đầu tìm cầu con đường thoát ly 3 cái chi phối nó. Nhưng chúng sanh ngoài thì họ cứ trôi lăn, tạo tác không ngừng. Giống như mình nói “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” nhưng khi thấy thì đã muộn.
Nó tập hợp tất cả vị trí, mãnh lực của nó, và chín chức năng đó nó hiện bày được cái mãnh lực của nó không ai xen kẽ vô được. Nó là chủ đất nước, chủ quyền rồi. Quý Phật tử phải cẩn thận.
Đối với nghiệp lực, quý Phật tử không chặn, không ngăn, chúng ta chạy thôi, chạy thiệt nhanh, thiệt lẹ. Chứ thực ra mình không chặn nó được.
Như Đức Phật Ngài khi Ngài thấy Già, Bệnh, Chết, Ngài không chặn cái Già của Ngài, Ngài không chặn cái Bệnh, Ngài không chặn cái Chết nhưng Ngài chạy, để đừng có Già Bệnh Chết chi phối Ngài nữa và không có quay lại trạng thái này nữa.
Đối với người Trí, họ phải biết xử lý chứ không phải đối phó.
10- Aniyamapada: Trình bày đến việc bất định (không nhất định).
11- Niyamapada: Trình bày đến việc nhất định.
Khi cái nào là niyama? Pháp Siêu Lý là pháp nhất định. Pháp Chế Định là Aniyama, pháp bất định.
Thế nào là pháp Siêu Lý? Là pháp Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp, Niết Bàn là Niyama.
Aniyama là những pháp Nāmapaññatti, atthapaññātti, pháp này bất định, nó tùy trường hợp, hoàn cảnh, tùy duyên hiện bày. Do đó, khi mình học được Phát Thú này mình sẽ ý thức được mình không bỏ hình bắt bóng. Mình phải ý thức được cái nào là niyama cái nào là aniyama.
Khi người hành Thiền Quán họ theo dõi Tâm của họ, họ thấy được 2 hiện tượng Niyama và aniyama. Tâm của họ sanh diệt, thay đổi hoài. Còn aniyama là sắc thân này bất định, bữa nay khỏe bữa nay không khỏe, nó thay đổi mà nó không có xác định được vị trí nào hay trong hoàn cảnh nào cả. Còn tính chất cố nhiên của nó là tâm của mình luôn luôn thay đổi.
Do đó, trong phần aniyamapada và niyamapada nói lên 2 chức năng mà đi đôi thường thường hay có: Bất định – Xác định. Và mình nên nắm bắt được trong mỗi câu, mỗi mãnh lực, và các duyên chúng ta sẽ phát hiện được 13 pháp này.
12- Lakkhanapada: Trình bày đến việc nhận xét (hoặc ghi nhớ đánh dấu).
Lakkhana = Trạng thái/ đặc tính/ sự nhận xét/ ghi nhớ/ đánh dấu.
Chúng ta đi học trên trường cái nào chính yếu, chủ yếu mình highlight, làm dấu, ghi chú để chi? Mình ghi chú để nhắc nhớ mình được.
13- Lakkhanavantakattupada: Trình bày đến việc có sự để nhận xét (hoặc để ghi nhớ đánh dấu) thành câu xen kẽ, “Vanta” dịch là “có”.
Những đặc tính, đặc tướng, thực tướng mình ghi chú mình phải cẩn thận. Những gì cần lưu ý Phát Thú sẽ trình bày cho quý học giả nghiên cứu lãnh vực đó.
Hôm nay chúng ta đi nghiên cứu 13 điều trong phần Phát Thú trình bày, chúng ta nhận xét được 3 điều chính:
1- Người tạo tác (Năng Duyên ) - Người bị tạo tác (Sở Duyên) Chắc chắn còn mãnh lực bên ngoài mà chưa để tới: Địch Duyên, ngoài chức năng của Năng, nó đang chờ và sẽ xuất hiện.
Mình phải coi, mình mới thức tỉnh được. Có khi mình không biết được mình là người tạo tác hay người bị tạo tác, ví dụ trường hợp nào đến với mình bất ngờ: “Cái này là tui làm, giờ tui phải chịu sao?” Hay là “Cái này tui không làm mà tui phải chịu sao?”. Mình không biết được. Với trạng thái đó, mà nếu có xảy ra trong tâm thức của mình, thì đứng về vấn đề Paṭṭhāna hay Siêu Lý thì tâm mình đang là Tâm Si Hoài Nghi hay Si Phóng Dật rồi. Mà đã là Tâm Si thì không được rồi. Mình phải biết, tôi là người tạo tác, tôi phải nhận; hay tôi là người bị tạo tác, tôi phải trả. Chứ không có gì phải thắc mắc hết.
Mình phải phân biệt được, mình phải xác định được, mình phải rõ được những vị trí đó.
Có Năng thì phải có Sở, có Nhân thì phải có Quả không có gì để chối cãi hay là từ chối cả. Mình học cái Phát Thú này xong mình mới thấy mãnh lực đó.
2- Cái nào là Nhất định/ Xác định– Cái nào là Bất định. Không có ở giữa.
Phần chúng ta phải biết:
Nhất định = Siêu Lý (Paramattha)
Bất định = Chế Định (Paññatti).
Do đó, chúng ta không có mơ hồ, cái nào là xác định, cái nào là bất định, cái nào là không nhất định. Chúng ta không mơ hồ. Phải biết và phân biệt được.
3- Không ngoài Tam Tướng: Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã.
Do đó, khi mình học được 3 điều của Phát Thú để mình bổ túc kiến thức, nhận thức về bộ môn Phát Thú mà Đức Phật chia sẻ cho các vị Chư Thiên thì mình phải hiểu được Tác Nhân – Hệ Quả ; Năng Duyên – Sở Duyên; Người tạo tác – Người bị tạo tác. Mình nắm rõ được hết.
Ngay khi quý Phật tử đang hiện hữu trong cuộc đời, qúy Phật tử là người tạo tác hay người bị tạo tác. Mỗi một thời gian: Thời gian quá khứ, thời gian hiện tại, thời gian vị lai; Giữa 3 thời này là thời gian chuyển khởi.
Như vậy thì khi nói về thời gian của người tạo tác và người bị tạo tác, quý Phật tử xác định được không?
Trong 13 điều này thôi, mình học Phát Thú mình phải thấy được, nói tới chỗ này, số 7 Kāladhārapada thì giai đoạn nào quý Phật tử là người tạo tác? giai đoạn nào là người bị tạo tác? Giai đoạn nào quý Phật tử gieo nhân? Giai đoạn nào quý Phật tử phải gặt hái hệ quả, hành động này?
Đứng trước một sự kiện đó, người trí giả họ phân biệt được, còn đối với người Phàm Phu họ không phân biệt được.
Ngay khi người đang tạo tác, đang gieo mầm, gieo hạt giống là họ bắt đầu đã có thời gian chuyển khởi để thành người bị tạo tác, gặt hái rồi đó. Sợ chưa? Giữa cả 2 luôn. Thiện cũng vậy. Bất Thiện cũng vậy. Nên chức năng thời gian quý Phật tử không để ý tới thì sẽ không phát hiện cái nào là nhất định cái nào là bất định. Nó chuyển động, chuyển đổi, chuyển khởi mà. Nó xoay vần. Giống như tuồng hát vậy. Vai tuồng này vai tuồng kia, thay đổi, nhưng trong khi nói tới thời gian 3 thời và có tính chuyển khởi không đứng yên vị trí nào của thời gian thì trong đó chúng ta sẽ thấy được Tam Tướng. Đó là xác định của người biết pháp Siêu Lý. Thay vì khi họ không biết được chức năng Tam Tướng họ sẽ bị cuốn trong chức năng tạo tác. Nhân nào quả nấy. Nhưng thật ra nếu họ biết mỗi pháp đều có sự thay đổi mỗi pháp đều hiện bày vô ngã thì họ chỉ sống trong pháp siêu lý là họ vượt họ chạy qua con đường phải ngồi để tư duy, tư lự, khảo lự, suy tư với những cái gì mình đã gieo trồng, tạo tác ra.
Do đó, 13 điều này ta sẽ nhớ 3 điều quan trọng.
Khi là người tạo tác là người đứng vị trí chủ nhân, chủ quyền đất nước, nhưng nó thay đổi, như thời gian chuyển khởi, nó đổi lại vị trí khác liền.
Do đó, đứng trước Phát Thú chúng ta sẽ thấy trùng trùng duyên khởi. Nó thay đổi liên tục, không xác định cố định 1 cái nhưng mà mấy cái này đã được ấn định trong khuôn khổ hiện bày của Phát Thú.
Như vậy, chúng ta đi tiếp qua phần tuần trước chúng ta nói qua.
Khi Đức Phật lên thuyết Abhidhamma cho Chư Thiên, Chư Thiên đâu có đụng con người nào đâu. Chư Thiên không đụng chúng sanh. Chư Thiên nghe pháp giải thoát, đắc Đạo Quả quả thôi. Do đó, mình phải hiểu là với những người học Phát Thú là chỉ lo cho mình thôi. Do đó, mình chỉ lo tu thôi, đừng dòm ai, nói ai, chỉ trích ai, phê bình ai, nhận xét ai, mình chỉ lo tu tập cho mình. Tu là phải gột rửa, sửa đổi, bổ khuyết, trau dồi. Do đó, mình mới được.
Khi quý Phật tử làm việc với Phật Pháp, đọc được Phật pháp, có cơ hội nghiên cứu hay xem lại, quý Phật tử giật mình với những cái việc tu tập của mình liền.
Hồi đó, Ngài Tịnh Sự dạy Sư 3 điều:
1- Ngài dạy cho Sư học.
2- Ngài dạy cho Sư dạy.
3- Ngài dạy cho Sư dịch.
Ngài dạy 3 bước cho Sư, mà giờ Sư mới nghiệm ra được.
Mình học thì mình biết rồi. Dạy thì Ngài nói có dạy mới có nhớ. Không dạy là quên. Học từ thứ 2 tới thứ 6, thứ 7 Phật tử vô, Ngài bắt dạy, Ngài không cho từ chối. Sư có hỏi, lúc đó Sư mới vừa xuất gia. Tối Ngài trùng tuyên lại Sư “hồi sáng ông dạy cái này sai, chỗ đó không cần thiết, chỗ đó không đúng, chỗ đó ông nói trật”. Bộ nhớ của Ngài khủng khiếp.
Khi ta nói tới phần Thiện với Pháp Thiện :
1. Câu Sanh Duyên ( Sahajata paccaya)
Câu lạc bộ = Cu hội : nhóm họp, tụ tập lại), lạc (vui chơi), bộ (tụ điểm, vị trí). Chỗ tụ tập vui chơi.
Câu Sanh = Đồng cùng sanh ra một lượt.
2. Câu Sanh Y Duyên (Y chỉ, nương nhờ, nương tựa)
3. Câu Sanh Hiện Hữu Duyên
4. Câu Sanh Bất Ly Duyên
5. Câu Sanh Trưởng Duyên
6. Câu Sanh Quyền Duyên
7. Đồ Đạo Duyên
8. Tương Ưng Duyên
9. Hỗ Tương Duyên
 9 mãnh lực làm việc thiện hình thành: Câu Sanh với việc thiện từ Ý nơi Ý môn (dvāra).
Mãnh lực nào làm ý về việc thiện hiện bày?
Thí dụ:
Nghe tin ngày mai có lễ Kaṭhina -> có việc xả thí, cúng dường, thính pháp, hồi hướng công đức. => việc thiện=> Ý câu sanh, phải có vô tham, vô sân, vô si. Quý Phật tử đừng đi về chế định nữa.
Mình câu sanh vô đó là mình có vô tham, vô sân, vô si với việc thiện này không? Hay mình có đố kỵ, hay mình có ganh tỵ, hay mình có trạng thái mặc cảm tự ti không? Không. Mình phải câu sanh thiện thôi. Đó là mình áp dụng công thức này.
Câu Sanh Y Chỉ: Mình phải nương vào vô tham, vô sân, vô si => Nuôi Câu Sanh Y để nó Hiện Hữu, Bất Ly trong tâm mình, không có phóng giật. Mình phải nuôi Vô Tham, Vô Sân, Vô Si trong tâm thức mình, phải luôn khắng khít với nó, rồi bắt đầu Hiện Hữu, Bất Ly. Mình mới uốn nắn Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, cho thành một cảnh trưởng để mình thực hiện được, thì là Câu Sanh Trưởng. Mình làm cho mình thực hiện được, mình có quyền thực hiện được là Câu Sanh Quyền. Và, mình làm cái này là đang hành đạo chứ không phải làm chuyện thế gian.
Hành đạo là sửa cái tâm mình lại, hay làm cho tâm mình phát triển tốt hơn.Trau dồi mà.
Mình phải Tương Ưng với việc hành đạo này. Mình Hỗ Tương, giúp đỡ cho việc hành đạo đưa đến thành tựu.
Đức Phật Ngài đưa đây là một công thức. Quý Phật tử làm đủ thì quý Phật tử có kết quả đủ tam tư, và có quả phước báu đầy đủ.
Do đó, mình đừng bắt vô người, không đi được phần Chế Định.
Mình chỉ nghe tin đó mình phải câu sanh với việc thiện, với tâm thiện, với nhân thiện của mình.
Không nói tới người. Cái đó là tập khí đó.Cái đó là chánh niệm. Mình đang tu mà, mình phải có chánh niệm hay phải có niệm lực.
Mình chỉ lo câu sanh với cái thiện và thể hiện việc thiện.
Con đường đi của mình, mình làm việc thiện đó trở thành cái trưởng, trở thành một năng lực mình sẽ làm được. Vì mình đang hành đạo, chứ không phải mình làm người hiệp thế. Mình đi đến con đường, đạo lộ đi đến Nhân – Thiên, giải thoát Niết Bàn.
Cái này mình phải sống hòa trộn, hỗ tương cho việc này đi đến sự thật, thành tựu viên mãn.
Đó gọi là công thức của làm việc thiện. Việc Thiện làm duyên cho việc thiện.
Như thế thì, khi quý Phật tử có công thức này, mình giải thích nó, về phần của mình.
Cái này là mình học pháp Đức Phật Ngài tìm khi chưa thành đạo. Còn bây giờ Ngài nói lại là đã thành rồi.
Mình nhớ lại câu mà Đại Đức Ānanda nói “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn ra đi, chúng con lấy gì con nương?”. Đức Phật nói : “37 Phẩm trợ đạo/ 37 Đẳng Giác phần/ 37 pháp Nhân sanh giác ngộ”
Thế thì khi mình có công thức này. Đây là công thức Ngài truyền lại cho mình. Quý Phật tử phải Niệm Xứ với cái này. Và, mình phải Tứ Chánh Cần với cái này. Bất Thiện nào cản mình mình phải diệt. Thiện nào chưa sanh mình phải làm cho nó sanh lên. Tứ Như Ý Túc, phải làm cho được theo ý của mình viên mãn. Mình phải làm theo năng lực của mình, và khả năng của mình được hiển bày (Ngũ Lực, Ngũ Quyền). Làm như vậy, mình phải có sự thức tỉnh giác ngộ (Thất Giác Chi), và con đường này đưa đến sự giải thoát (Bát Chánh Đạo). Đó là phần này của mình.
Do đó, mình có công thức, và mình có con đường tu tập.
Do đó, khi ta nói một tin tức, một câu chuyện đến với ta, ta phải câu sanh với câu chuyện đó. Ta có vốn không? Thì cái này gọi là Hiệp lực. => Trang A2 – Nhân Hiệp Lực. Có hiệp lực ta mới Tấu hợp được việc thiện này. Giờ ta có khả năng nào hiệp lực vô khả năng này không?
Nếu không học Phát Thú mình lo sợ lắm. Và, không thành tựu theo như mình nghĩ được đâu.
Cũng câu chuyện này, nhưng mình không biết câu sanh và hiệp lực với công thức này, để làm việc thiện này được thành tựu thì lúc bấy giờ, nó sanh ra cái gì? Nó sanh ra tập khí của mình. Nó nằm trong Thường Cận Y Duyên của mình. Sinh ra Ngã Mạn, sinh ra Tà Kiến, sinh ra Hoài Nghi. Sinh Trạo Cử. Nếu ta không tu tập thì nghe tin việc làm thiện bắt đầu mình bị Thường Cận Y dẫn dắt theo chiều hướng không được tốt liền.
- Ngã mạn có mấy ? Có 9 : Hơn (3) : Hơn ỷ hơn, hơn ỷ bằng, hơn ỷ thua– Bằng (3): Bằng ỷ hơn, Bằng ỷ bằng, Bẳng ỷ thua – Thua (3): Thua ỷ hơn, Thua ỷ bằng, Thua ỷ thua.
Trong phần Hiệp lực, mở ra phần 227-229 có nói: Khi tâm ta không nghĩ tới việc thiện, tâm ta không tau dồi việc thiện thì tâm ta nghĩ tới bất thiện. Chưa nói tới việc ác. Quý Phật tử thấy sợ không? Đừng nói chuyện bình thường.
Việc thiện, mình không câu sanh Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, lúc đó mình nói: Thôi, mình không bằng ai hết, mình mặc cảm tự ti, mình đóng khung lại. Lúc đó mình đang đổi nghề thợ mộc, đóng cái “kệ”.
- Tà Kiến: Thấy sai chấp lầm
“Làm gì có phước, phước đâu mà có” – không tin
- Hoài nghi : Không tin vào phước, nhân quả.
- Trạo cử: Phóng giật.
Khi chúng ta không làm việc thiện, không có tác ý thiện, câu sanh thiện thì chúng ta sẽ có 1 cái bất thiện, 1 cái ác nghiệp.
Điều thứ 2 Sư muốn nhắc, khi đang tạo tác việc Thiện, không đơn giản để trổ sanh ra quả dễ dàng vậy đâu. Khi ta muốn câu sanh được Vô Tham, Vô Sân, Vô Si này để nghĩ thôi, trong đầu làm việc thiện, chưa hẳn đã có. Còn mãnh lực quá khứ nữa. Mãnh lực quá khứ nữa. Mình có gieo không? Mình có tạo tác không để mà mình được tạo tác? Phát Thú nó sẽ giải đáp được. Do đó, khi mình không có gieo thì mình không có giống, chủng loại, hạt giống này.
Gặp người nhị nhân, trong quá khứ không gieo trồng nhân vô si, thì họ dễ dàng làm Vô Tham, Vô Sân, nhưng Vô Si, họ không biết. Họ làm theo máy móc hay làm theo truyền thống, thói quen, họ không biết được việc làm này có ý nghĩa gì, giá trị gì. Lúc bấy giờ họ đi tới đây thôi, họ có thể câu sanh y, câu sanh Bất Ly nhưng họ không biến thành Câu Sanh Trưởng được. Và không tạo thành quyền lực được, và không tạo con đường Đồ Đạo, Đạo lộ để họ tu tập được. Và họ không biết cách Tương Ưng, Hỗ tương với nhân thiện này, với cái việc thiện. Vì họ là người Nhị Nhân.
Do đó, quý Phật tử phải thấy nó không đơn giản đâu.
Do đó, bây giờ khi mình hiểu được cái đó, những mãnh lực đó, muốn thành Trưởng không dễ. Quý Phật tử phải cẩn thận, phải thấy trong Tứ Niệm Xứ này, đâu nói tới Trí đâu. Nói tới Niệm thôi. Nhưng dưới Đổng Sát lực của Niệm là sự nhận thức, là mầm mống tạo ra sự tỉnh giác, sự tỉnh giác đưa tới giác tỉnh. Lúc đó ta mới thấy được. Trong cái Tứ Chánh Cần mình chỉ lấy năng lực mình làm thôi, đâu nói tới Trí đâu. Qua tới Tứ Như Ý Túc mới bắt đầu thấy có Thẩm, mới có trí lên. 2 Giai đoạn này là nhị nhân (Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần). Quý Phật tử phải cẩn thận. Rồi đi từ đó phát triển lên mới được. Do đó, có những người họ tu phước được nhưng tu huệ họ tu không nổi.
Cũng như có người học được mà hành không được.
Ta có 2 phương pháp tu:
1- Phước Huệ song tu : Vừa làm phước vừa tu huệ.
2- Học hành song tu : Vừa tu học vừa tu hành.
Khi có học hành song tu mới có phước huệ song tu.
Chúng ta trở lại 13 điều của Phát Thú cho chúng ta cái hướng đi, hay hướng nhìn trong việc tu tập cho chính mình. Mình tóm lược lại, tóm tắt lại nó có mấy điểm chúng ta phải tóm tắt. Do đó, người tạo tác, người được/bị tạo tác thì quý Phật tử ở thế nào? Làm chủ nhân hay làm chủ đất nước hay chủ vị hay là người bị động, bị ảnh hưởng.
Với những trường hợp đó, quý Phật tử thấy, với những người Nhị Nhân, Vô Tham, Vô Sân họ là người bị động, bị tạo tác, có người dẫn dắt mình đi. Có người có Vô Si, có trí họ sẽ nói “Tui biết cái gì tui phải làm, cái gì tui nên làm, tui sẽ làm được những điều đó” thì quý Phật tử thấy phần Phát Thú làm cho mình có cái nhận xét, nhận định.
Xả Thí khác, Cúng Dường khác nha.
Khi Xả Thí => Làm được việc Hồi hướng.
Khi Thính Pháp => Làm được việc Cúng dường.
Rất là hay.
Những cái đó nằm trong tác ý thiện, thiện làm duyên cho thiện.
Không phải lễ Kaṭhina chỉ có việc xả thí, hay cúng dường, hay có việc cung kính, hay có việc hồi hướng, hay có việc thính pháp,... Không có. Ta phải biết làm những việc làm của Phát Thú và biết những mãnh lực công thức của việc thiện này.
Khi quý Phật tử ở trong nhà thôi, ngày mai mới tới làm.
Quý Phật tử bắt đầu sống với Chuyển Khởi liền. Thì Chuyển khởi đổi từ hiện tại qua Vị Lai liền, chuyển khởi quá khứ thành hiện tại liền.
Sư cắt nghĩa: Quá khứ chưa từng bố thí, quá khứ chưa từng nghe thuyết pháp, quá khứ chưa từng cúng dường, quá khứ chưa từng hồi hướng, quá khứ chưa từng tùy hỷ công đức,... bây giờ mình chuyển khởi. Quý Phật tử đang làm việc thiện thì quá khứ không ảnh hưởng được. Nãy ta nói rồi mà, ta không bàn chuyện thời gian, ta chạy mà. Trong khi mình không biết dùng thời gian này, mình ngồi tư lự. Chuyển khởi liền. Mình đang là chủ nhân và mình sẽ ở vị trí chủ vị liền, mình đổi nghiệp lực mình, mình đổi việc tu tập mình liền, mình đổi hoàn cảnh của mình liền. Thì lúc đó, quý Phật tử đang nằm trong ý môn, chưa qua Thân môn, ngữ môn.
9 mãnh lực này làm cho quý Phật tử được thiện thì quý Phật tử nắm bắt cái nào là chính trong 9 duyên này. Mình phải biết. Cái nào là chính để nó đưa mình đi, còn 8 cái kia đi theo.
Trưởng có 2:
- Tư Duy Duyệt Ý: Nghĩ suy làm mình cảnh trưởng => Mãn ý, vừa ý.
- Thực Tính Duyệt Ý: Bài học cho mình làm cảnh trưởng. => Bài học cho mình thức tỉnh.
Không lấy Câu Sanh Trưởng làm chính trong việc làm thiện của mình. Mà phải lấy Đồ Đạo Duyên. Mình hành đạo thôi, không có gì là trưởng hết. Mình đang hành đạo để mình giải thoát thôi. Chớ không có.
Đồ Đạo Duyên, đầu tiên mình đi là Chánh Kiến.
Trong Đồ Đạo duyên đã có trí tuệ rồi ; Chánh Kiến, Chánh Tư Duy.
Nếu có Đồ Đạo thì mình Tương ưng với Đồ Đạo, Hỗ Tương cho Đồ Đạo, thì lúc đó Câu Sanh với việc thiện, và việc thiện của mình thành tựu.
Khi quý Phật tử lấy con đường, Đồ Đạo Duyên là mãnh lực chính thì ta đi thế này: Với Đồ Đạo Duyên (Bát Chánh Đạo) chúng ta mới đi tới ý thức giác ngộ (Thất Giác Chi), và nó thành mãnh lực của mình (Ngũ quyền, Ngũ lực,...), và mình đi tới trạng thái Hành niệm xứ này đạt được kết quả.
Nên Sư hỏi : Hành Thiền hay Hành Đạo?
Vây mình mới thấy mình là người tạo tác hay người bị tạo tác. Với người tạo tác hay người bị tạo tác, mình nói tới trí tuệ dẫn dắt mình đi, Phát Thú hướng dẫn mình đi.
Ngoài đời thì không biết cũng làm, nghe người ta bố thí mình bố thí, thấy người ta cúng dường mình cúng dường, người ta xả thí mình xả thí, người ta in ấn kinh sách mình in ấn kinh sách, hùn phước, hùn phước. Nhưng mình không biết, đó là mình làm theo truyền thống, làm theo tập khí hay theo người hướng dẫn.
Nhưng hôm nay mình biết rồi. Quý Phật tử muốn làm Xả Thí, trong Xả Thí đó quý Phật tử muốn Xả Thí cái gì? Cúng Dường cái gì? Rồi trong cái đó, quý Phật tử đang hành đạo hay đang làm việc thiện.
Giờ chúng ta đi qua phần làm việc thiện.
Khi tới phần Thường Cận Y Duyên rất rõ ràng, chúng ta sẽ đi tới phần đó.
Sự giải thoát, có 3 nghĩa giải thoát:
- Giải thoát phiền não: Mỗi lần ta hành đạo, tâm ta được thiện, ý ta được thiện, thân ta được thiện, ngữ ta hành thiện thì phiền não không có cơ hội xen vô. Chúng ta giải thoát được phiền não.
Xả Thí bị cột trói bởi Bỏn xẻn, xan tham: Giữa cái cho và cái co tay, nắm lại là nó giằng co, là phiền não đó. Lực trì kéo đó nó cản. Nó phiền não lắm.
- Giải thoát nghiệp báo: Xả Thí – Nghèo khó, muốn làm không được, đâu có dễ đâu. Đứng mà chạnh lòng, chạnh lòng là cuồn cuộn bất thiện lên lại, nó sẽ làm phiền não sanh đi sanh lại. Những cái đó nó lặp đi lặp lại.
- Giải thoát luân hồi: Bỏn xẻn lặp lại, nghèo khó lặp lại, nó dẫn dắt mình trong trạng thái luân hồi, xoay vần. Nó luân chuyển không ngừng làm ta bị cuốn trong đó hoài.
Đầu tiên, mình phải giải thoát phiền não trước. Những phiền não nó cột trói mình dữ lắm.
Do đó, trên con đường tu tập hành đạo, chúng ta phải có 3 hướng đi:
1- Phiền não được lắng xuống, thanh lọc.
2- Những nghiệp báo nó đang sau lưng mình, chứ nó không làm chủ, chủ động với mình được.
Mình sẽ thấy mình chạy đằng trước.
Như vậy thì, đứng trước Phát Thú, Nhất Định – Bất Định, quý Phật tử đứng vế nào? Tâm con người cứ bất định, không xác định được thì tâm người đó khó thành công lắm.
Thì chúng ta mới nhìn thấy Tam Tướng.
Với người bị tạo tác, thì người đó bất định và họ sống trong trạng thái Chế Định và họ trong Tam Tướng.
Mình phải trong vị trí chủ động.
Trong 9 mãnh lực duyên, quý Phật tử có trong tay, phải lựa chọn vị trí chủ động. Chứ không thể nào quờ quạng, phải chủ động liền. Trong một vị trí nào phải rõ được vị trí của mình, ở trong môi trường, chứ không phải biết rõ vị trí trong môi trường đang ở.
Nếu quý Phật tử không tạo dựng cái đó, không gieo hạt giống đó. Thì tới, khi quý Phật tử rơi vào thời gian mà quý Phật tử sanh ra trong thế gian không có Chánh Pháp, qua 5000 năm Phật lịch là chúng ta hết Giáo Pháp. Quý Phật tử rơi vào 5001 trở về sau không có Chánh Pháp thì quý Phật tử sẽ không có vị trí của mình, nếu quý Phật tử không gieo trồng. Khi đọc được mãnh lực duyên này.
Như có vị nói “Ta làm việc thiện này ta được thoát 80 triệu kiếp, việc cúng dường chỉ với một đóa hoa“ (Kinh thí dụ Appadana) (Quyển II, trang 242)
“Cúng dường một đóa hoa đã làm cho tôi chẳng bao giờ biết đến ý niệm trong khổ thú (= 4 đường ác đạo hết, không có trong cõi địa ngục, không có trong cõi ngạ quỷ, không có trong cõi A Tu La, không có trong cõi bàng sanh). Suốt trọn thời gian 80 triệu tuổi thọ, koti, do quả phước báu nhận được từ nơi cúng dường từ một đóa hoa thôi. Nhưng họ có tác ý, có tam tư, có đủ việc thiện của họ.
Theo Chánh Tạng, chẳng phải được sinh quả báu làm trời, làm người mà nối tiếp qua lại suốt 80 triệu kiếp qua lại, mà ở mỗi kiếp sống họ tiếp tục làm, như một mãnh lực Vô Gián Duyên, Đẳng Vô Gián Duyên thì họ mới hưởng được 80 triệu kiếp này.
Do đó, khi quý Phật tử không hiểu được mãnh lực duyên này và quý Phật tử không hiểu được, người tạo tác nhất định sống trong siêu lý, vượt qua tam tướng thì quý Phật tử sẽ ở trong lãnh vực bên đây.
Quý Phật tử phải ở trong vị trí xác định của mình, trong vị trí nhất định của mình, và quý Phật tử trong trạng thái hiểu biết vị trí của mình. Phải chuẩn bị.
Phần 2 – Làm việc thiện
Tổng hợp nội dung Vô Tỷ Pháp, Quyển II, Chương V,Trang 223,
Tuần trước ta nói Thập Phúc Hành Tông, Tam Tư.
Bữa nay, Sư nhắc lại thôi.
Một người làm việc thiện, và một người làm việc ác, mà mình đồng loã với việc thiện, đồng lõa với việc ác thì bằng tội, bằng phước nhau. 1 thành 4.
Do đó, ở đây, khi nói tới Thập Ác Hạnh, có 30 hay 40,
Mỗi tuần, Sư không thể nào đi nhanh được. Mỗi tuần Sư đưa chút chút, nối tiếp theo quý Phật tử mới có số lượng nhiều lên được. Học cái này không thể nào một ngày một buổi xong được đâu.
Khi quý Phật tử Thập Phúc Hành Tông, hay đang tạo Thập Ác Nghiệp Lực,
Thập Phúc Hành Tông Thập Ác Nghiệp Lực (1-3: Thân; 4-7: Ngữ/Lời; Ý: Ác)
1. Xả Thí 1- Sát Sanh
2. Trì Giới 2- Trộm Cắp
3. Tu Tập 3- Tà hạnh Tính Dục
4. Cung Kính 4- Vọng Ngữ (nói dối)
5. Phụng Thị/Phụng Hành 5- Ly gián ngữ (nói lời chia sẻ, đâm thọc)
6. Thính Pháp 6- Thô ác ngữ
7. Thuyết Pháp 7- Hồ ngôn loạn ngữ
8. Tùy Hỷ Công Đức 8- Ý Tham Ác
9. Hồi Hướng Công đức (Hồi hướng - cho người quá vãng) 9- Ý Sân Ác
10. Chân Tri Chước Kiến 10- Ý Tà Kiến, thấy sai chấp lầm

10 x 3 (Tam Tư: Tư Tiền, Tư Hiện, Tư Hậu) = 30.
(1- Tự bản thân thực hiện, 2- Sai bảo người khác thực hiện; 3- Bày vẽ người ta thực hiện; 4- Hoan hỷ, mãn ý với việc làm thiện/ ác ) x 10 = 40.
Nếu làm đủ 1 trong 4 điều mà đủ Tam tư =70.
Nếu ta không tu, ta không hành đạo thì ta bên về bên đây ( thập ác nghiệp).
Sợ chưa?
Thiện cũng vậy, bất thiện cũng vậy.
Khi ta nói tới bỏn xẻn, ngược với xả thí. Bỏn xẻn có 5:
1- Bỏn xẻn giòng giống: Con Vua cho lấy dòng Vua không cho lấy dòng thứ dân, môn đăng hộ đối.
2- Bỏn xẻn chỗ ở/ trú xứ:
3- Bỏn xẻn tài sản: Không cho của cải, cất giấu.
4- Bỏn xẻn tri kiến (kiến thức):
5- Bỏn xẻn giáo pháp: Con đường giải thoát mình biết mình không chỉ, không cho người ta biết.
Xả Thí:
Tư Tiền = Có sự Hoan Hỷ; Tư Hiện = Có Tịnh Tính; Tư Hậu = Có sự Hoan Hỷ, không hối tiếc.
Có người có 1, có người có 2, có người có 3.
Cetanā = Tư/ Tác ý / Nghiệp , đồng nghĩa Kamma
Nghiệp, có 3 loại nghiệp:
1- Nghiệp Lực:
a. Thiện Nghiệp Lực:
i. Hiệp thế
ii. Siêu Thế
b. Bất Thiện Nghiệp Lực: Chỉ có 1 - Hiệp Thế.
2- Nghiệp Quả:
a. Phala: Quả trổ sanh liền
b. Vipāka: Dị thục quả, trổ sanh trong thời gian khác.
3- Nghiệp Báo:
a. Phiền não
b. Mãnh lực Nghiệp Lực
c. Luân hồi => Tạo tác => Đón nhận quả, không ngừng.
Nirodhajhāna = Thiền Diệt.
Tâm không sanh nữa. Nó ngưng tâm sanh diệt 7 ngày, từ ngày thứ nhất tới ngày thứ 7. Tới ngày thứ 8 họ xuất thiền ra. Tâm không sanh. Lúc đó tâm không có. Ngài Sāriputta nhập thiền Diệt, con Dạ Xoa, nó lấy búa đánh vào đầu Ngài Sāriputta, người nhập thiền diệt họ có thể bảo vệ sinh mạng của họ không chết, họ phải biết cái đó, lúc đó họ kiên cố, nên khi con Dạ Xoa đánh sau ót Ngài Sāriputta, mà sức nó đánh bể một cái núi. Nhưng Ngài không có. 7 ngày sau Ngài xuất thiền, tay Ngài với sau ê ê thôi. Ê ẩm vậy thôi chứ không ảnh hưởng gì hết. Nó vừa quánh xong nó rớt xuống Niraya liền, rớt xuống Avīci, Vô Gián Địa Ngục (8 tầng địa ngục, quyển Cam, quyển I, chương V), rớt xuống đó không gián đoạn cái khổ cho đến khi hết nghiệp thì thôi. Cái đó là phala, vừa đánh xong trổ liền.
Người nhập thiền Diệt là Tứ Quả và Tam Quả. Nhưng Tam Quả hi hữu lắm. Thời Đức Phật Tứ Quả nhiều lắm. Chưa thấy nói Tam Quả nhập thiền Diệt.
- 7 ngày tâm không sanh, xuất khỏi thiền Diệt, có 2 hướng đi:
o Trở lại Tâm Quả Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Còn trước khi vô Tâm thiền Diệt là Tâm Thiện (Với bậc Bất Lai) hoặc Tâm Duy Tác (Tứ Quả), sau 2 sát na vô lại Tâm Hữu Phần.
o Hay có những vị không bận việc, không muốn đi đâu họ nhập thiền Quả luôn. Lúc đó là phalasampatti, họ hưởng, như Đức Phật vậy đó, hưởng cảnh Niết Bàn.
Khi Ngài Ca Diếp hay Ngài Xá Lợi Phất xuất khỏi thiền Diệt, Ngài đi bát, Ngài đi khất thực, Ngài đi trên đồng ruộng, ông nông dân mang vật thực ra ngoài đồng, để trưa nay dùng cơm, thấy Ngài Xá Lợi Phất/ Ngài Kassapa, chạy lại hỏi: Trong bát Ngài có vật thực chưa? Thường thường phải hỏi, không biết Ngài đi ra hay Ngài đi xong rồi. Ngài nói “Chưa”. “Ngài đợi con!”. Ổng nghèo nhưng có tâm xả thí lắm, ổng cúng dường hết vật thực buổi trưa cho Ngài. Ngài nói “Chúc thành tựu phước báu như ý nguyện”. Nên Sư thường hay nói “Cảnh quả phước như ý nguyện trong hồng ân Tam Bảo”. Ngài đi rồi, ông nông dân quay lại, đồng ruộng ông hóa vàng hết. Vàng ròng.
Cũng như con Dạ Xoa đánh vào đầu Ngài Xá Lợi Phất. Phala liền. Đó là nghiệp quả thứ nhứt, trổ sanh liền.
Còn cái thứ hai là Dị Thục Quả, trổ sanh thời gian khác.
Thí dụ, ta làm trong kiếp này, kiếp thứ 2 thứ 3, thứ 4,… mình mới hưởng. Hay ta làm hôm nay tháng sau mới hưởng. giống như ta gieo một cây trộng có khi 3 năm sau mới ra trái. Cái đó là Dị thục quả.
Nghiệp báo: Nó trở lại 3 mãnh lực đó (Phiền não, Mãnh lực nghiệp lực trổ sinh cuốn ta trong luân hồi đi tới tạo tác => đón nhận quả không ngừng.
Khi đi qua 3 lãnh vực này, quý Phật tử bị ảnh hưởng trong 3 đối tượng này. Nếu mình không biết, mình dễ làm vô minh duyên hành lắm. Cứ làm hoài làm hoài. Bố Thí cũng vậy, mình không biết, không ai chỉ mình làm, mà người đón nhận cũng vậy.
Cũng như hồi nãy 1 thành 4. Thí dụ, quý Phật tử không biết vẫn làm. Sư không nói, không chỉ quý Phật tử Sư đón nhận Sư cũng đồng lõa với quý Phật tử luôn.
Do đó, 2 bên phải ăn khớp với nhau. Thiện cũng được, Ác cũng được. 2 cái bằng nhau.
Quý Phật tử Xả Thí mà không biết cách, Sư nhận cái Xả Thí đó Sư cũng đồng lõa với Nghiệp quý Phật tử luôn.
Ta phải thống nhất lại, quý Phật tử biết cách làm thì Sư yên tâm nhận cái gì quý Phật tử làm, Sư không có lo nữa.
Hiểu được chưa?
Do đó, quý Phật tử phải hiểu. Khi ta làm cái gì, không làm phương hại đến người khác là việc thiện. Khi ta làm việc gì mà có phương hại người khác, mà người ta có ảnh hưởng chung với mình thì cái đó chưa phải là thiện rồi đó.
Đức Phật nói 4 điều:
1- Lợi cho mình – Hại người : Không làm.
2- Lợi mình – Lợi người: Làm.
3- Hại mình – Lợi người: Không làm.
4- Hại mình – Hại người: Không làm.
Chỉ có một điều Lợi mình & lợi người thôi.
Mình phải dùng trí.
Ta làm việc thiện này, cho dù là việc Xả Thí đi nữa, đó là hành đạo của mình không phải việc thiện suông. Việc Thiện này là Đồ Đạo duyên chứ nó không phải Câu Sanh Trưởng. Hai cái đó khác biệt nhau một trời một vực, nếu không tác ý sẽ đi ra mãnh lực của nghiệp báo, của luân hồi rồi.
Như vậy, khi ta đã hiểu, ta không làm theo 1 trong 4, ta làm với trạng thái đã biết.
Chúng ta đi qua phần Xả Thí.
Ở đây có nhiều giải thích lắm.
Như trường hợp Bất Thiện có 5 chi, việc thiện có 10 chi.
Hôm nay Sư nói phần Xả Thí của Thập Thiện. Trang 241.
Khi ta học Suttanta Pitaka và Abhidhamma Pitaka 2 cái nó khác biệt nhau lắm.
Thí dụ, quý Phật tử cúng dường một bông hoa, hay một bộ y, hay vật thực hay tịnh tài vật chất cho nhà sư, cái đó Suttanta nikaya phân tích như vậy. Nhưng đối với Abhidhamma không nói cái đó. Cúng dường bông hoa = Cúng dường cảnh sắc, đó chỉ là một cảnh sắc thôi, thuộc paramattha. Bông hoa là Paññatti.
Thí dụ, cúng dường Tứ vật dụng là Paññātti. Thì đây là cúng dường một pháp siêu lý.
ở trang 240, đọc thấy “Nếu ta nói theo Kinh Tạng, thì thân hành xả thí, ngữ hành xả thí, ý hành xả thí”
30 là đủ Tam Tư, nhưng nói về Vô Tỷ Pháp thì có 11 & 23: Xả Thí có Ý hành Xả Thí: Ý không có tham, là Xả Thí từ nơi Ý. Trì Giới. Tu Tập, Cung kính,… nó chia ra mấy phần đó.
Hôm nay chúng ta đi qua phần Xả Thí. Rồi Sư tiếp tục qua Trì Giới, Tu Tập, để quý Phật tử áp dụng Thiện làm duyên cho Thiện này. Đi đầy đủ chi tiết hết.
1. Tư Tiền Thí: Trước khi cho có sự hoan hỷ.
2. Tư Hiện Thí: Ngay khi cho có tịnh tín (niềm tin trong sạch: Nhân này Quả đó, biết mối liên hệ của việc làm thiện).
3. Tư Hậu Thí: Sau khi cho có sự hoan hỷ.
Có 4 cách:
1- Có người có Tư Tiền, không có Tư Hiện, không có Tư Hậu: Mình có tác ý, muốn xả thí, nhưng tới khi thực hiện mình bị nghiệp lực cản: Bịnh, không có điều kiện, không có phương tiện, không có môi trường, không có hoàn cảnh, không có sự thích hợp. Mình mất luôn cái hậu luôn. Mình buồn bã, thất vọng, đau khổ. Tui muốn lắm nhưng tui không làm được.
2- Có Tư Hiện, không có Tư Tiền, không có Tư Hậu: Lên chùa thấy người ta làm thì làm, làm xong trách mấy bà không cho tui biết, mất luôn tư hậu luôn. Mình có tư hiện thôi, tiền mình không có biết, bất ngờ mà. Rồi sau đó mình buồn mình trách, mình than. Mất luôn tư hậu luôn.
3- Có Tư Hậu, không có Tư Tiền, Tư Hiện: Không có chuẩn bị, người ta thực hiện thì không có, sau cứ Anumodāna của người ta thôi.
4- Có đủ Tam Tư.
Đứng về lý, thì có những hạng người này.
Nhớ, quý Phật tử có thể không có Tiền, Hiện, nhưng phải có cái hậu thì quý Phật tử được hết. Có tiền, có hiện mà không có hậu thì mất hết. Cái hậu nó quan trọng.
Ông bá hộ đó. Ổng có tiền, lúc ổng còn sống ổng không xài. Vua Pasenadi tới sung ngân khố quôc gia hết, lên hỏi Đức Phật : “Bạch Đức Thế Tôn, vì nhân nào mà ông bá hộ này giàu sang phú quý tiền tài của cải mà chết không có người kế thừa?” Đức Phật nói “Trong quá khứ, khi ông xả thí, ông cho ra, ông thiếu tư hậu, ổng hối tiếc, sau này ổng có của cải mà ổng không hưởng được ”. Mình phải hiểu cái đó. Ông có tư tiền, có tư hiện, nhưng thiếu tư hậu, ổng không hoan hỷ, ổng tiếc, mà sau này có tài sản đầy đủ hết không hưởng được.
Do đó, đừng sợ mình thiếu Tư Tiền, Tư Hiện. Nhớ đừng mất Tư Hậu.
Anumodāna, nhưng người ta phải Sadhu!Sadhu!Sadhu! mới được.
Người đầy đủ Tam Tư thì tuyệt vời.
- Có người có Tư Hiện, có Tư Hậu nhưng không có Tư Tiền.
Kỹ thuật để hưởng phước khôn ngoan là mình có Tư Hậu.
Có Tài Thí & Pháp Thí.
Tài Thí (Tứ Vật Dụng) có 4 thể loại, không riêng cho người tại gia, mà người xuất gia cũng làm được, không riêng ai:
1- Y phục xả thí:
2- Khất thực xả thí:
3- Trú xứ xả thí:a
4- Thuốc men xả thí:
Quý Phật tử phải làm. Người tại gia, người xuất gia cũng vậy.
Như Sư làm lễ dâng y Kaṭhina cho chư Tăng. Sư lấy y áo nhờ cô Phật tử may, Sư trả tiền công, xuống miền Tây Sư chủ lễ dâng y Kaṭhina, trong Kaṭhina Sư có dâng vật thực, trong vật thực, Sư có dâng Tứ Vật dụng cho họ xây chùa, xây cốc liêu, sửa sang; Sư có thuốc men trong đó.
Không bắt buộc chỉ người tại gia, người xuất gia cũng làm được.
Nói về vật chất có :
1- Tài vật xả thí
2- Pháp bảo xả thí thù thắng hơn tài vật xả thí. Thí dụ: In ấn kinh sách, phát hành kinh sách, cho kinh sách, thuyết giảng, giảng dạy cho người ta con đường tu học. Là quý Phật tử đang làm Pháp Bảo xả thí. Cái này không dành riêng cho ai, tại gia cũng được, xuất gia cũng được.
Pháp bảo xả thí > Tài vật xả thí.
Nó có thêm
1- Tự chế xả thí = Tự thân làm. Mình đứng ra bỏ bát vật thực, in ấn kinh sách, bỏ ra công sức mình làm. Là tự chế.
2- Vô bị ích xả thí = Sai bảo người khác làm. Mình đi làm không được, mình không có điều kiện, phương tiện, thời gian, mình nhờ người khác, sai người khác, bảo người khác làm.
Tự chế xả thí phước nhiều hơn Vô bị ích xả thí.
Ngoài ra có:
1- Liễu tri xả thí = mình làm mình biết => Sau này mình có tài sản mà có trí tuệ
2- Bất liễu tri xả thí = mình làm mà không biết, thấy người ta làm làm theo => Có tài sản mà thiếu trí tuệ => Người Nhị Nhân, có Vô Tham, Vô Sân mà không có Vô Si.
Còn có:
1- Luân hồi xả thí: Đời nào sanh lên, là nhân – thiên đều có tài vật, có trí tuệ luôn, nhưng mình còn phải luân hồi. Có những người xả thí mong đời sanh có đầy đủ tài sản, có trí tuệ khôn ngoan nhưng không nguyện giải thoát.
2- Niết Bàn xả thí: Họ tạo phước chẳng có sự mong cầu trong tài sản của cải, chỉ mong cầu tuệ Chánh Đẳng Chánh Giác, tuệ Độc Giác, Tuệ Chí Thượng Thinh Văn, Tuệ Đại Thinh Văn, Tuệ Thinh Văn. Những người này chỉ mong cầu Đạo Quả Giải thoát thôi.

Mục lục

sannhien.com.au