Back
Phần Vấn Đạo - Vi Diệu Pháp
Thiền sinh: Con ngồi thiền con chú trọng đến hơi thở mà không để ý đến thân nên thân con thường bị thụng về phía trước. Vậy sau này con có nên chú trọng đến hơi thở không, và hôm nay con đổi chân thì có phải là con nhìn vào hơi thở không được mạnh. TT trả lời: Thứ nhất khi ta ngồi thiền sẽ có 2 đối tượng là thân và tâm, một số người ngồi thiền chú nhiều về tâm mà không để ý đến thân, do đó hiện tượng của thân sẽ nghiên ngả hay là lưng thụng xuống v.v.... đó là trạng thái họ không để ý theo sức hút của trái đất mà chúng ta học về vật lý hay ta bỏ một vật thể nào xuống thì tất cả đều bị sức hút của trái đất mà trút xuống. Thì khi ta ngồi thiền cũng theo trạng thái đó nếu ta không có chánh niệm và tỉnh giác. Chánh niệm là biết ta đang ngồi thiền, ta theo dõi hơi thở, có sự ghi nhớ, ta biết tỉnh giác là trong thân và tâm, luôn luôn biết những chuyện gì xảy ra, đang xảy ra và nó sắp sửa xảy ra, tỉnh giác cũng vậy chứ không mê muội hôn trầm không hiểu biết. Do đó, khi ngồi thiền, thân ta ngồi chút xíu nó thụng xuống ta cũng phải biết và chỉnh cho thân ngồi thẳng lại. Khi ta ngồi nếu thân đang bị nghiêng thì nếu có vị thiền sư chỉnh cho mình ngồi ngay lại, nhưng mà kẹt một cái là tâm lý của người ngồi thiền là kỵ nhất bị người khác đụng vô người lúc mình đang đang tập trung, thì nếu mình đụng vô người đang ngồi thiền làm họ giựt mình người đó hoảng hốt, tâm không có an vui sau này bị ám ảnh. Do đó những phương pháp xưa kia khi ngồi thiền mà ngủ gục thì thiền sư đánh vô đầu hay vô người 3 cái, đó là tối kỵ không được đụng vô người đang tu tập làm người ta hoảng hốt sau này người ta cứ sợ. Minh phải coi, nó có 2 hiện tượng đến, một là tâm lý mình nghĩ nó đang bị nghiêng nhưng thật ra mình còn đang thẳng lưng, tại mình lo tập trung quá, định mạnh quá, lo chú tâm vô trong hơi thở hay đối tượng của mình mà mình không để ý tới thân, mình phát hiện ra thân mình nghiêng nhưng thật ra không có vì lúc đó là mình tưởng, còn nếu mình thật đang nghiêng qúi Phật tử có thể ngồi sửa lại được. Đó là điều qúi Phật tử thấy điều thứ nhất. Cách thứ hai khi ta ngồi thiền khi trạng thái mình không có thể vượt qua được pháp nghịch là, tê, nhức, mỏi, đau, quá sức rồi thì ta có thể sửa đổi một chút không trở ngại, cái đó là thông lệ và là thường tình. Tuy nhiên vì mình cứng ngắt cho rằng cái đó là xấu, hay là yếu, là dở mình, không thoái mái, thì mình khởi tâm sân, thì mình phải thấy là cái đó mình làm tâm mình sân chứ không phải nó có, nhưng nó là do mình khởi sân. Bài học lúc nãy Sư nói đối tượng làm ta sân, hay là tâm ta sân vì đối tượng, thì lúc đó mình sẽ thấy ta sân vì đối tượng chứ không phải đối tượng làm ta sân. Mình đổi oai nghi được không ai nói và không có gì trở ngại. Nhưng mình thấy là đổi oai nghi là xấu, là không tốt, là dở, mình khó chịu lúc đó tâm mình sân lên, tại cái tâm mình không kiểm soát, thì mình niệm: "sân à, sân à". Những cái đó mình phải hiểu biết như vậy, mình mới quán sát theo dõi bám chặt giữ lấy được, những lúc đó là mình thấy được pháp chứ mình đừng để có những trường hợp đáng tiếc không đáng xảy ra. Không nên nghĩ, hôm nay tại sao mình không làm được như kỳ trước, tại sao mình không làm được giống như ngày hôm qua. Mà mình làm thông thường đơn giản cũng là một yếu tố đưa đến kết quả như ý muốn. Còn mình dốc lòng làm mà mình không được như ý muốn thì cái đó là tâm mình bữa nay không có vượt qua được. Do đó, không có khi nào Sư nói là bữa nay qúi Phật tử yếu quá không đủ nghị lực để vượt qua, Sư không nói như thế. Mà tâm mình coi lúc đó tại sao hôm nay mình làm không được hay lúc đó giữa cái hay và cái dở là một cái tỷ số đo lường cao thấp mình đặt ra, hay tiến trình tu của mình đang có mà mình thấy mình đang lui sụt hay không, cũng là chế định, mình coi lại cái tâm mình xử lý. Những cái đó là cần thiết, qúi Phật tử chểnh mệnh một chút xíu Chế Định nó dắt mình đi ra ngoài Hiệp Thế, mà Hiệp Thế mình mất đi điểm Siêu Thế. Tâm mình sáng suốt lúc đó mình bị lọt vô trong pháp nghịch là trạo hối, phóng dật, và hối tâm hối hận liền, bắt đầu trạo hối sanh lên bắt đầu bị cuống cuồng trong đó mình không ra được thì trạo hối lọt vô trong hoài nghi, đó là pháp nghịch kéo mình lại, nó không phải nghiệp báo Cái tâm lý mình dễ dàng và tâm đó mình dễ thấy, nhưng qúi Phật tử không có kinh nghiệm chưa có quen xử lý đối phó với nó.
Thiền sinh: Thưa Sư, khi ngồi thiền thì con cảm thấy đường lối quen thuộc thành ra lập đi lập lại có vẻ như con không vô được cái gì lâu được bởi vì cái sự hiểu biết nó lọt vào trong tình trạng thấy pháp, làm sao để con có thể trở thành quán sát không cần biết trước? TT trả lời: Có hai trường hợp, qúi Phật tử sẽ thấy người đa văn quảng kiến học mà biết nhiều, thấy gì cũng biết hết thì người đó chủ quan. Người mà có trí thức họ thường hay chủ quan, "cái này tôi rõ rồi, tôi thông rồi, không có gì thắc mắc nữa". Đó là một pháp nghịch của mình, cái pháp nghịch của mình lúc đó là qúi Phật tử đang ở trong trạng thái tâm sân, sân triền cái nó làm cho mình bất toại nguyện mình thấy mình chán liền, bất toại nguyện, không hoan hỉ liền. Cái đó là tâm sân, mình phải niệm liền "sân à, sân à", và lúc đó mình không đi lại con đường cũ mình đang có, vậy thì qúi Phật tử sẽ thấy những cái gì mình thường hay có, hơi thở và những khái niệm về hơi thở nó sẽ đi tới trước nó sẽ cho mình ra mình thấy điều đó, qúi Phật tử đổi qua "ngồi à, đụng à" qúi Phật tử sẽ không có ra được trường hợp đó tại vì trước đây mình chưa có dùng cái đó, mình được quyền đổi qua "ngồi à, đụng à" và mình coi lại trạng thái ngồi đó mình chưa biết tâm mình đang đi về cái đó mình thấy cái gì trong đó, cái bắt đầu mở con đường mới mình đi là như vậy. Những trường hợp đó xảy ra như vậy mà qúi Phật tử không qua được cái cửa quen đó nó có 2 điểm lợi và bất lợi, nếu mà quen đó là qúi Phật tử phá thành trì quen đó dễ lắm, bỏ ra mình thấy liền, giống như đứa con mà nó thường lập đi lập lại mình biết ý nó rồi thì mình sửa cái đó dễ lắm. Hai nữa là mình phải chịu lệ thuộc nó luôn rồi nó dắt mình đi theo thói quen đó nó bắt mình đi theo nó luôn. Thì 2 cái đó thì bắt đầu mình phải làm như là mình không để ý tới nó và mình đi qua cái đường mới "ngồi à đụng à" nếu chưa từng quen, mình để cái tâm mình ở đó. Cái thói quen thì phá nó dễ hơn cái mới, cái mới Sư phải đi tìm coi gốc cội nguồn nó từ đâu, coi nhân nào lên quả đó, nhân này sanh nhân này diệt Sư tìm, Sư phải dụng dụng nhiều lắm nhưng mà thói quen vừa lên là Sư diệt liền và Sư đổi nó qua pháp nó tới tiếp đứt ra liền, cái đó là cái kinh nghiệm của Sư, nhưng qúi Phật tử chưa có quen thì mình cứ đổi qua cái mới, cái mới nó cũng sẽ trở lại nếu như cái đó mình đã thuần thục rồi như vậy mình phải đối diện trở lại, thành ra thói quen nó không phải là một pháp cho ta phải đứng lại mà thói quen mà nó làm cho ta đứng lại đó là cái pháp để chúng ta tiến tu phải vượt qua, mình sẽ qua được.
Thiền sinh: Thưa Sư, tùy theo tính của mỗi người, thường thường trong đề mục lộ ngũ môn là nhãn môn, có khi nào có nhĩ môn không? TT trả lời: Có chứ, qúi Phật tử sẽ có lúc là nhĩ môn. Do đó, qúi Phật tử sẽ bị ở trong góc độ là luôn luôn ở trong thiền đường ở trong nơi thiền tập nơi đó qúi Phật tử mới dùng nhãn môn thuần túy, nhưng trong đời sống hàng ngày mình cũng dùng được nhĩ môn. Đôi khi ở trong thiền đường các thiền sinh tu với nhau ở trong môi trường tu tập cũng có khi ta nghe những âm thanh tiếng động ở chung quanh, hoặc khi ta đang lái xe ngoài đường ta cũng nghe nhĩ môn ta niệm "nghe à, nghe à". Trong đời sống hàng ngày đi đứng trong nhà của ta hay trong sở chúng ta đang làm việc thì chúng ta sẽ nghe sẽ thấy ta niệm "nghe à, thấy à", mình luôn luôn giữ chánh niệm, lộ nhĩ môn vẫn phát triển. Như vậy thì, khi ta ngồi thiền mà chúng ta nghe được nhĩ môn là khi xung quanh ta có những tiếng động phát lên, khi qúi Phật tử đang ngồi thiền ở trong rừng già có chim hót hay con khỉ kêu thì qúi Phật tử niệm "nghe nghe", những lúc đó mà qúi Phật tử bắt được là qúi Phật tử có chánh niệm tỉnh giác với cái đối tượng chúng ta đang có, với chánh niệm ghi nhớ biết được, vẫn có như thường chứ đâu khi nào chúng ta ngồi thiền nhất là thiền quán là không bao giờ ta dùng nhãn môn thường xuyên. Lộ thiền quán là chúng ta dùng ý môn nhiều nhất, ta sài tâm ý thức biết cảnh pháp nhiều hơn là lộ nhãn môn biết cảnh sắc, tại vì ta thu thúc nhãn căn lại không nhìn cảnh sắc. Do đó, trong Thanh Tịnh Đạo mà Sư nói về 6 loại tính tình; tính tham, tính sân, tính si, tính tầm, tính đức tin, tính giác, đó là những loại tính tình ứng dụng cho pháp môn thiền Chỉ (không phải thiền Quán), ở đây chúng ta đang tu thiền Quán, do đó chúng ta chỉ dùng lộ ý môn thuần túy để theo dõi cảnh pháp, Thân, Thọ, Tâm, Pháp, theo tứ oai nghi chúng ta đang có mà chúng ta biết được diễn tiến của sanh diệt của nó, nhân quả của sanh diệt nó đang có là chúng ta theo dõi thực tướng của Vô Thường, Khổ Đau, Vô Ngã. Thành ra nhĩ môn cũng có, tỷ môn cũng có, thiệt môn cũng có, thân môn cũng có. Với 6 loại tính tình có thuần túy ở trong thiền Chỉ mà thôi.
Thiền sinh: Thưa Sư, có phải thiền Quán khó hơn khi mình bắt đầu nhập định trước khi đến cận định chuyển qua thiền Quán thì con đường đi dễ hơn. TT trả lời: Không dễ hơn, không có cái nào dễ, nhưng có thể có khả năng làm được hơn.
Thiền sinh: Thưa Sư, trong thiền Quán thường mình có lộ ngũ môn thì khi mình nghe âm thanh mình niệm "nghe à, nghe à" và mình buông bỏ trở lại. Nếu trong thiền Chỉ lấy nhĩ môn để chọn đề mục thì có hay không? TT trả lời: Mình lấy lại đề mục đó mình quán phương pháp đó là ý môn bắt được cảnh pháp. Nếu trong thiền Chỉ mà lấy nhĩ môn chọn đề mục thì trong 36 đề mục của Thiền Chỉ không nói tới. Trong 36 đề mục của thiền Chỉ thì 10 đề mục kasina không nói âm thanh, 10 đề mục bất tịnh về thể xác tử thi không nói tới âm thanh, do đó 36 đề mục trong thiền Chỉ không nói tới âm thanh do đó mình phải đi qua thiền Quán. Còn đối với những người gọi là Chỉ Quán trí giả và có loại Tịnh Quán trí giả, với những người mà họ không thuần túy về Tịnh Quán trí giả như Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên, nghe pháp như Ngài A xà Chí chứng đắc đạo quả liền, đó là bậc Tịnh Quán trí giả. Còn ta ngày hôm nay chúng ta phải đi Chỉ Quán trí giả, ta phải ngồi thiền pháp môn thiền Chỉ thiền Quán rồi chúng ta mới qua được con đường chứng đắc đạo quả. Do đó, con đường chúng ta dùng thiền Chỉ có khi được có khi không, mà ngày hôm nay hầu hết có thể nói là 80% các vị hành giả tu nói là thiền Quán nhưng một thời gian sau tâm họ an trú được họ định được họ an lạc được họ ở luôn trong đó họ trở lại thiền Chỉ lúc nào không hay biết, và họ đem ra hướng dẫn lại cho các vị thiền sinh khác pháp môn thiền Quán nhưng thật ra họ đã ứng dụng của thiền Chỉ và họ đang chỉ lại pháp môn thiền Chỉ mà họ không hay biết. Có nhiều người không thấy con đường họ đang trở lại thiền Chỉ mà họ thấy được tâm họ an tịnh, họ nghĩ là họ đạt được kết quả Niệm, Định và Tuệ, thì định mà họ đang được tịnh chỉ đó an tịnh tâm họ là một giai đoạn đang đứng ở đó. Con đường thiền Quán là phát sanh 16 tuệ quán, con đường đó mới đi đúng phương pháp của thiền quán. 1) Tuệ quán thứ nhất là thấy được danh và sắc 2) Tuệ quán thứ hai thấy được nhân quả của danh và sắc 3) Tuệ quán thứ ba thấy được sự sanh diệt của danh và sắc 3) Tuệ thứ III - Sammasananàna - Tuệ suy xét thấy Danh Sắc là vô thường, khổ não, vô ngã. Do sự suy xét mà thấy, chứ không phải thấy bằng Trí Tuệ. Còn gọi là Tuệ Thấu Ðạt 4) Tuệ thứ IV - Udayabbayanàna - Tuệ thấy sự Sanh-Diệt của Danh Sắc. Tuệ quán thứ tư thấy phổ thông tướng vô thường khổ đau vô ngã. 5) Tuệ thứ V - Bhanganàna - Tuệ Diệt, Hành-giả thấy thân thể nhẹ nhàng, niệm "Phồng à, Xọp à", không thấy rõ rệt rồi mất. 6) Tuệ thứ VI - Bhayanàna - Tuệ Sợ, cũng như Tuệ thứ V, phát sanh không lâu rồi diệt. Hành-giả ngồi niệm " Phồng à, Xộp à " rồi phát sanh sợ. 7) Tuệ thứ VII - Adinavanàna - Tuệ thấy Hiểm Nguy của Ngũ uẩn. Danh Sắc là Ngũ-uẩn. Hành-giả sợ thân này mất. Các thọ khổ lại xuất hiện lại như nhức, mỏi, tê, mệt. Có lúc Hành-giả thấy lông nheo đâm vào mắt, nhức mỏi khó chịu, lổ tai lùng bùng, hoặc đau bụng, hoặc ngứa ngáy cùng thân thể. Hành-giả suy nghĩ: "Tại ta có thân ngũ-uẩn này nên ta phải chịu các bệnh tật, khổ não." Trí tuệ phát sanh, Hành-giả chán nãn. Theo trong kinh nói có cả thảy 59 hay 96 thứ bệnh có thể phát sanh khi Hành-giả đến Tuệ thứ VII này. Các bệnh cũ có thể tái phát. Thí dụ: có một Hành-giả có bệnh lên máu. Lúc ấy, bệnh lên máu phát sanh lại, lấy máy đo thấy máu lên cao. Hành-giả niệm "lên máu à", ít lâu sau thấy máu giảm xuống. Có khi bệnh hết luôn. Nếu bệnh trở lại, Hành-giả cũng niệm như cũ, bệnh dứt. Hành-giả suy xét thì tại có thân ngũ-uẩn này, có Danh Sắc này nên phải thọ khổ, thọ bệnh hoạn. Suy xét như vậy. Hành-giả thấy tội của ngũ-uẩn, nên có tâm chán nãn không muốn có thân nầy nữa. 8) Tuệ thứ VIII - Nibbidanàna - Tuệ Chán nãn. 9) Tuệ thứ IX - Mũncitukamyatanàna - Tuệ muốn Giải thoát. 10) Tuệ thứ X - Patisankhanàna - Tuệ Suy Tư 11) Tuệ thứ XI - Sankharùpekkhanàna - Tuệ Xả Hành 12) Tuệ thứ XII - Anulomanàna - Tuệ Thuận-Thứ 13) Tuệ thứ XIII - Gotrabhunàna - Tuệ Chuyển Tánh, còn gọi là Tuệ "Cắt dòng phàm". 14) Tuệ thứ XIV - Magganàna - Ðạo-Tuệ 15) Tuệ thứ XV - Phalanàna - Quả-Tuệ 16) Tuệ thứ XVI - Pacechavkkhananàga - Tuệ Kiểm-soát Phiền-não và Tuệ Niết-Bàn. Đó là những tiến trình đi của 16 tuệ quán con đường hành thiền quán thì họ sẽ đi đến đạo quả Niết-bàn. Còn nếu như mà họ chỉ thấy định tỉnh chỉ an tịnh là họ ở trong thiền Chỉ. Con đường tu bắt đầu đi qua tiến trình tâm thức nếu như ta chọn đối tượng bên ngoài thì phải đi từ lộ ngũ môn. 1) Đối tượng bên ngoài ta nhìn thấy qua lộ nhãn môn. 2) Sau khi lộ nhãn môn xong tới lộ ý môn - để hướng tâm tới mục đích của ta. Nếu như lộ ngũ môn đang dụng công Thiền-na, mà lộ ý môn hướng tâm đến mục đích đang tu tập để đạt tới mục tiêu. Nếu lộ ngũ môn là nhãn môn là ta đang dụng công Thiền-na để tu tập đạt đến mục đích là lộ ý môn. Thí dụ: Với người hành thiền Chỉ để một đề mục trước mặt cách 7 tấc và họ bắt đầu chăm chú nhìn vào đối tượng đó, mở mắt ra nhìn, rồi nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra nhìn, rồi nhắm mắt lại. Nhìn hoài không rời, lúc mở mắt ra không rời, mà nhắm mắt cũng không rời đối tượng. Bắt đầu dụng công Thiền-na chăm chú vào đối tượng, mở mắt nhìn, nhắm mắt lại nhìn, nhìn hoài như vậy là đang ở Lộ Ngũ Môn (nhãn môn). Khi đối tượng đó xuyên suốt và không rời và bền vững trong tâm thức qúi Phật tử đang có nó qua Lộ Ý Môn thì đối tượng đó không dừng tại nơi đó, ta phải đạt tới mục tiêu, lúc đó ta dụng công tu tập để đến đắc định. Thiền-na là phương pháp dụng công để chúng ta đạt đến cứu cánh tu tập là đắc định. Người yếu về tâm thì, dùng Ngũ Môn trước, Ý Môn sau, để trụ tâm ở lại. Thí dụ, ngồi với đề mục trừu tượng tâm qúi Phật tử sẽ bị hai hiện tượng: - Một là phóng dật. - Hai là hôn trầm thụy miên. Nếu đối tượng đó là trừu tượng, qúi Phật tử ngồi nghĩ hoài không ra, suy nghĩ hoài không được, đối tượng trừu tượng qúi Phật tử không nắm bắt, không thấy, không giữ được là trừu tượng, làm cho tâm qúi Phật tử dễ bị phóng tâm dễ bị hôn trầm. Với đối tượng thấy được mình không dễ gì bị phóng tâm, vì nó ở trước mắt sờ sờ như vậy qúi Phật tử không thể nào bị hôn trầm thụy miên được. Các vị Thiền Sư cho rằng các vị hành giả yếu về tâm phải dùng đối tượng có hình ảnh để cột tâm lại. Với người tâm mạnh họ không cần phải có những đối tượng hiện hữu trước mắt họ để họ nắm bắt nên họ thiền với đề mục trừu tượng, chẳng hạn họ rải tâm từ hay họ niệm hơi thở, mình không nắm bắt mà chỉ ngồi nhìn thấy nó với trạng thái nó vô ra thôi, nó là hình tượng làm ta dễ bị phóng tâm, dễ làm chúng ta bị hôn trầm dù rằng nó có trong ta, vô và ra, nó luôn luôn liên tục như vậy đó, thì người đó không có Lộ Ngũ Môn, mà Lộ Ý Môn này tới Lộ Ý Môn kia. Như vậy những người yếu tâm họ phải có đề mục là đối tượng không trừu tượng họ mới dụng công được. Còn người mạnh tâm thì họ sẽ có một Lộ Ý Môn trước để biết đối tượng của mình, một Lộ Ý Môn thứ hai để hướng tâm tới mục tiêu mình đạt tới. Do đó, mình phải hiểu: một mình là người yếu tâm, hai là người mạnh tâm. Ở hai lãnh vực đó tự mình biết. ĐĐ Ca Diếp là một vị du sĩ ngoại đạo thờ thần lửa, nhưng tới khi được Đức Phật độ đắc Quả Alahán, đề mục thiền của Ngài vẫn là lửa. Cách thức ngồi thiền đề mục lửa là hành giả phải che tất cả xung quanh tầm nhìn của hành giả và chỉ chừa chừng một bàn tay hình vòng tròn có cây đèn cầy đang được đốt cháy sáng, tất cả ngoài khung tròn có ngọn lửa thì được che dán lại. Hành giả bắt đầu ngồi niệm đề mục lửa, nhìn ngọn lửa đó cho dù ngã qua ngã lại, thụt lên thụt xuống, hành giả vẫn chỉ thấy lửa, nhắm mắt lại vẫn thấy lửa, mở mắt ra vẫn thấy lửa, đó là hành giả đang dùng đề mục có hình sắc, không phải là trừu tượng, tại vì mình yếu tâm. Nhưng đối với Kassapa (Ca Diếp) Ngài không cần ngọn đèn cầy này, nhắm mắt lại Ngài thấy lửa liền đó là Ngài mạnh tâm, thì lúc đó từ ý muốn đến Ý Môn Ngài không dùng Nhãn Môn để thấy ngọn lửa như ta đang cần có để mình thấy ngọn lửa, nhắm mắt lại nhìn thấy lửa vẫn còn đó thì lúc đó là Lộ Ý Môn hướng tâm về hướng đi của ta. Khi qúi Phật tử nhìn với trạng thái đó thì đầu tiên ngọn lửa đang chuyển động với ngọn đèn cầy chúng ta đang có mà chúng ta bọc hết chung quanh không bị chi phối những gì chung quanh nó nữa, thì những lúc trạng thái lửa lay động qua lại đó chỉ là những chuẩn bị tâm thức của ta để mà hành thiền tu tập để đắc định ta gọi là chuẩn bị tướng, chúng ta đang chuẩn bị để tu tập. Khi hành giả nhắm mắt lại không còn thấy ngọn lửa lay động, chỉ nhìn thấy ngọn lửa và, tiếp tục theo dõi ngọn lửa đó thì, lúc đó qúi Phật tử đang đi tới cận hành tướng . Giai đoạn này qúi Phật tử còn sài Ngũ và Ý, (lộ ngũ) Giai đoạn sau qúi Phật tử sài Ý cho cái Ngũ. (lộ ý) Giai đoạn chuẩn bị tướng còn sài Lộ Ngũ, giai đoạn sau sài ý thôi. Lúc đó cận hành tướng tâm khắn khích vô đề mục lửa, nhắm mắt lại thấy lửa, mở mắt ra thấy lửa, nhắm mắt lại thấy lửa, lúc đó là hành giả đang cận hành tướng. Rồi đến cuối cùng là nhập định. Lúc đó qúi Phật tử chỉ có là Ý Môn mà thôi chứ không còn có Lộ Ngũ Môn nữa. Vậy thì khi qúi Phật tử đi những giai đoạn này, từ giai đoạn chuẩn bị, tới cận hành, tới nhập định, 3 bước như vậy, đây là những người còn dùng ngọn đèn cầy để làm đối tượng đề mục để mình tập trung trú tâm được ta gọi là những người yếu tâm, phải có đối tượng để khỏi bị hai pháp dể sanh lên là phóng tâm và hôn trầm thụy miên. Ví dụ, khi đang bị phóng tâm hành giả đang ở Lộ Ý, mở mắt thì thấy ngọn lửa, vừa nhắm mắt lại tâm mình suy nghĩ về gia đình của mình thì phải mở mắt nhìn ngọn lửa liền để dán tâm đặt tâm vào trong ngọn lửa chứ không để cho tâm mình chạy theo chuyện gia đình của mình, đó là ở giải đoạn chuẩn bị tướng. Mở mắt nhắm mắt, mở mắt nhắm mắt, để mình nhìn thấy đối tượng giữ cho tâm mình vào đề mục, để ngăn phóng dật hay ngăn hôn trầm thụy miên. Nhưng khi hành giả kiên cố bền bỉ và lúc đó đang cận hành tướng thì hành giả không cần dùng ngọn lửa, không còn nghĩ tới đối tượng lửa bên ngoài nữa mà trong tâm trí lúc nào cũng với ngọn lửa trong nội tâm đang có được thì hành giả đi tới cận hành tướng, từ cận hành tướng đó đi tới một quang tướng sáng lên là qúi Phật tử nhập định, là giai đoạn thứ 3. Đề mục lửa Giai đoạn từ chuẩn bị tướng và cận hành tướng là giai đoạn hành giả đang tiến tu một trong 8 tâm Đại Thiện Dục Giới mình đang có. Giai đoạn chuẩn bị tướng và cận hành tướng là giai đoạn qúi Phật tử đang tiến tu xử dụng một trong 8 tâm Đại Thiện mình có, mà khi mình nhập định đắc thiền: Tâm thiền thứ nhất (sơ thiền) sanh lên. Tâm thiện sơ thiền này là hành giả chứng đắc định với đề mục mình đang tu thiền. Lộ trình tâm qúi Phật tử đi vào con đường tu tập thì Lộ Ý Môn lên Khai Ý Môn: - Chuẩn bị, - Cận hành - Thuận tùng. - Chuyển tập - Đắc định Lộ trình tâm đi như vậy: Thì trong giai đoạn 4 tâm này; chuẩn bị, cận hành, thuận tùng, chuyển tập, 4 sát na tâm này là một trong 8 tâm Đại Thiện. Đắc định là Tâm Thiện Sơ thiền lần thứ nhất đắc chứng thiền tại đó. Còn khi hành giả đắc được thiền trong một sát na tâm xong xả thiền ra, đắc được tầng thiền thứ nhất, Sơ Thiền Sắc Giới với đề mục có sắc pháp. Xả thiền ra. Rồi qúi Phật tử muốn ngồi thiền lại, mình lập nguyện: - Nguyện cho tôi với tầng thiền đã chứng đắc trở lại với tôi trong vòng một tiếng nữa. Bắt đầu qúi Phật tử trở vô tầng thiền lại và nguyện ra giai đoạn thiền thứ 2, ở tầng thiền 1 tiếng. Do đó, người đắc thiền chỉ có một sát na ra liền rồi muốn ngồi thiền 1 tiếng hay ngồi cả một ngày là họ phải lập nguyện rồi họ mới trở lại cái thiền đó họ mới có được 1 tiếng đồng hồ hoặc 2 tiếng đồng hồ, hay một ngày. Lập nguyện: "Nguyện cho tôi trở lại đắc chứng tầng thiền mà tôi đã chứng đắc một tiếng đồng hồ", lúc đó mình lập nguyện với thời gian mình muốn ở thì nó sẽ trở lại với qúi Phật tử. Khi nào làm được như vậy qúi Phật tử mới trở lại thiền rồi ngồi trong thiền, đắc chứng thiền ở trong thiền thời gian mình muốn, một giờ hay một ngày hay hai ngày, nhưng không được quá niêm luật 7 ngày, đó là những người hành thiền chỉ. Từ tâm chuẩn bị, qua tâm cận hành, qua tâm thuận tùng, qua tâm chuyển tập, 4 sát na tâm này là một trong 8 tâm Đại Thiện và chắc chắn qúi Phật tử chỉ còn 4 tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí, giai đoạn này chỉ cón 4 tâm Đại Thiện Tương Ưng Trí mà thôi, không có thể nào có 8 tâm Đại Thiện ở trong 4 sát na tâm này, lúc đó là rốt ráo đi đến con đường 100% đắc định, đắc sơ thiền. Thế thì làm sao mà qúi Phật tử vừa Ngũ vừa Ý để qúi Phật tử làm chuẩn bị tướng này khắn khích được (đó là kỹ thuật). Ngọn lửa có trước mắt của ta mà làm sao nắm được cái chuẩn bị tướng này vừa Ngũ vừa Ý. Ngũ mở mắt ra nhìn thấy và Ý nhắm mắt lại hình ảnh đó ở trong tâm trí mà không rời khỏi, làm sao qúi Phật tử có được? Về kỹ thuật qúi Phật tử sẽ đi qua 4 công lực của nó thì mới đi được, ở giai đoạn chuẩn bị tướng này qúi Phật tử phải có; Tầm, Tứ, phỉ, lạc, 4 giai đoạn này, rồi tới khi qúi Phật tử đi tới Lộ Ngũ đó là giai đoạn 4 Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc là Ngũ, qua giai đoạn Nhất Thống là Lộ Ý. Về kỹ thuật Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc và Nhất Thống luôn luôn là qúi Phật tử chuẩn bị tướng khắn khích với đề mục đó không rời ra: 1) Tầm = đem tâm đến với cảnh hay là đến với đối tượng 2) Tứ = quán sát đối tượng 3) Hỉ = vui thích với đối tượng 4) Lạc = an vui với đối tượng 5) Nhất thống = Tâm mình khắn khích với đối tượng Đó là Sơ Thiền. Tuy nhiên nếu làm vậy không đúng về kỹ thuật Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc, là chuẩn bị tướng, ở giai đoạn mình đang chuẩn bị vừa lộ Ngũ vừa lộ Ý vừa mở mắt nhìn thấy rồi nhắm mắt còn nhớ được hình ảnh đó, mở mắt nhìn thấy nhớ lại hình ảnh đó liên tục như vậy, là qúi Phật tử phải có 5 chi thiền (Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc, Nhất Thống) này ở trong một giai đoạn chuẩn bị tướng chứ đừng có nói là ở giai đoạn này chỉ có Tầm và Tứ, giai đoạn kia Hỉ và Lạc, giai đoạn chót là Định, không phải như vậy, từng mỗi giai đoạn chuẩn bị tướng, cận hành tướng, rồi tới nhập Định phải đi liên tục như vậy với 5 chi thiền chứ không rời xa nó, đó là kỹ thuật tiên quyết, nhất quyết phải làm được. Tâm qúi Phật tử phải để tâm vào đối tượng là Tầm, rồi quán sát đối tượng là Tứ, không cho phép phóng tâm hôn trầm hay hoài nghi tham sân khởi sanh lên trong lúc 5 triền cái này khởi lên lúc qúi Phật tử đang chăm chú nhìn đối tượng không cho phép qúi Phật tử buông ra, là lúc nào cũng phải nhắm tâm vô trong đối tượng thiền, mình là người yếu, do đó phải khắn khích nhìn hoài cho tới đối tượng là một với ta thì ta mới đắc định với nó (đối tượng thiền) được. Tùy theo căn cơ mình mạnh thì nhanh, mình yếu thì chậm, có người ngồi thiền một tiếng đồng hồ đạt được định, còn mình ngồi thiền một ngày không được, một tuần không được, không nói thời gian được, việc tu này phải rõ và nắm chắc, người nào nói được thời gian là người đó nói không chân thật, không nói thời gian được mà mình phải dốc lòng, thật sự mình muốn đắc hay không đắc, đó là thời gian mình quyết định được. Đứng trong lớp học của một vị thầy giáo trung học tới đại học cũng vậy thôi, anh cứ lo học đi, còn chuyện ra trường là chuyện của anh, còn chuyện của tôi dạy là chuyện của tôi. Có nhiều người học 12 lớp mà ở lại 16 năm, người ta học 4 năm ở trong đại học mình học 6 năm, cái đó không ai nói được mà mình phải quyết định và quyết định đó do nơi ý trí và nghiệp lực của mình làm ra. Giai đoạn chuẩn bị tướng phải đủ 5 chi; Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc, Nhất Thống (Định), khi đạt tới Nhất Thống là chuẩn bị tướng. Rồi tới giai đoạn cận hành tướng chỉ còn Ý thôi chứ không có Ngũ nữa, không còn nhãn môn nhìn thấy cảnh sắc nữa mà là Ý thôi, đó là vô tới cận hành tướng của đề mục đó nó khắn khích trong tâm thức của ta thì lúc đó cũng Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc, Nhất Thống với cận hành tướng. Rồi một phút giây của Nhất Thống cận hành tướng làm cho qúi Phật tử đắc định của cái định mà qúi Phật tử sẽ đạt được tại nơi đó. Như vậy thì khi qúi Phật tử đi về mặt kỹ thuật là qúi Phật tử phải đi bài bản kiên cố kỹ thuật chính xác và cẩn thận từng bước một không bỏ được cái nào, qúi Phật tử không thể nào từ Tầm đến Lạc liền mà phải từng bước một từ Tầm phải có Tứ, rồi Tứ phải có Hỉ, rồi có Lạc, rồi tới Nhất Thống, từng bước từng bước. Tầm phải tới Tứ là đối tượng là của nó và ta đang theo dõi nó, rồi Hỉ là của nó ta vẫn biết được nó, Lạc của nó đang cho ta thấy được lạc là của nó. Còn qúi Phật tử mà Tầm tới Lạc liền là đối tượng đó của mình, cái tu của mình là chủ quan, phải đi như vậy, phải thận trọng, phải làm đúng từng bước từng bước, làm chậm, chính xác và không khinh xuất, lượm từng bước, từng chút một, từng chút một, sẽ đạt được kết quả. - Tầm là khi nhìn ngọn lửa, tâm qúi Phật tử không bao giờ rời khỏi vị trí ngọn lửa là có tầm. Thí dụ, nghe con chó sủa, con chim hót hay là tiếng động đằng sau cửa qúi Phật tử không để tâm nơi đó mà cứ nhìn lửa là tầm, không để ý đến chuyện gì khác, tâm mình để ý đến ngọn lửa là tầm. - Tứ là ngọn lửa chao qua đảo lại đưa lên hạ xuống ngã trước ngã sau, tâm vẫn đang nhìn ngọn lửa đó là qúi Phật tử đang ở Tứ. - Hỉ là, qúi Phật tử thấy việc làm của qúi Phật tử thật là vui trong trạng thái bám sát là Hỉ. - Lạc là mình thấy yên lòng, yên tâm khắn khích. - Nhất Thống quyết định con đường mình đi tới là nhất thống trong chuẩn bị tướng, - Yên tâm rồi, không có lo nữa, bắt đầu mở con mắt mình là Nhãn Môn, khép mắt lại là qua Ý Môn. - Lúc nào qúi Phật tử cũng mở mắt ra cũng thấy đề mục thiền, mà nhắm mắt lại cũng thấy đề mục thiền là cận hành tướng đến rồi đó, - Cái đề mục thiền đó nó không còn xa luôn luôn nó khắn khích với ta gọi là cận hành, không rời xa ta luôn luôn tâm ta nghĩ tới là có liền gọi là cận hành . - Nhưng cũng phải đem tâm nghĩ tới nó dòm ngó tâm ta còn thấy nó là Tứ, - Vui thích với nó còn ở trong ta là Hỉ, - Yên tâm việc làm này là Lạc, - Khắn khích với nó không rời xa nó là Nhất Thống của cận hành tướng Phút giây đó nó sẽ chuyển đến đắc định rất là nhanh. Khi mà đến giai đoạn chuyển rất nhanh đến đắc định là sẽ đi tới. - Giai đoạn thứ nhất chuẩn bị tướng, giai đoạn đó gọi là thô tướng. - Giai đoạn thứ hai cận hành tướng còn gọi là cận tướng. - Giai đoạn thứ ba là nhập định là quang tướng. Giai đoạn chuẩn bị tướng là giai đoạn đó hiện bày một cách thô thiển, tới cận hành tướng tình trạng đi tới vi tế. - Qúi Phật tử thấy trạng thái thô tướng là qúi Phật tử còn thấy nó nhấp qua nhấp lại lên xuống cao thấp dài ngắn. - Tới cận tướng lúc đó qúi Phật tử không thấy những hiện tượng đó mà chỉ thấy một ánh sáng mà thôi nhưng ánh sáng đó không có hực hào quang, chỉ là ánh sáng của ngọn đèn cầy mà thôi, qúi Phật tử không thấy những trạng thái của nó mà chỉ thấy ánh sáng của nó, nhìn vô là thấy ánh sáng liền, đó là ánh sáng của ngọn lửa của đèn cầy. - Nhưng tới quang tướng ánh sáng tỏa cùng khắp mọi nơi như mình với nó là một, chúng ta đắc định về ngọn lửa, ta chọn đó là đề mục của ta. Đó là thiền Chỉ. Ở trong giai đoạn đi 4 chi thiền Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc hết sức quan trọng, qúi Phật tử làm một nền tảng kiên cố Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc hết sức vững chắc và bền bỉ qúi Phật tử mới nhập định được, qúi Phật tử không thể nào coi thường Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc được mà có được Nhất Thống. Tầm Tứ, Hỉ, Lạc hết sức là kiên cố bền vững chắc chắn lúc đó mới có Nhất Thống với đề mục đó được. Đó gọi là kỹ thuật tu tập về thiền Chỉ. Trong giai đoạn tu tập về thiền Chỉ từng bước từng bước tâm qúi Phật tử lắng xuống đi tới tĩnh lặng. Những triền cái những pháp nghịch trong tâm ta bắt đầu diệt tắt, hết tham, hết sân, hết trạo hối, hôn trầm, thụy miên và hoài nghi bắt đầu diệt tắt hết, lúc đó tâm yên lặng, một đề mục và đề mục đó với tâm là một, tâm bắt đầu lắng xuống không còn tham, sân, si, trạo hối, hôn trầm, thùy miên, hoài nghi, chỉ có một đề mục thiền mà thôi. Tâm ta ví như con cóc búng ra búng vô mãi, chúng ta phải giữ nó hoài không cho nó đi đâu, từng bước từng bước, con cóc bắt đầu nằm yên chỗ đó không đi đâu nữa. Đó là Nhất Thống, định tại đó. Hành giả là một vị tu tập về thiền Chỉ còn biết được tâm và đối tượng, nhưng khi đắc định, ngay tại đó chỉ thấy là một, đối tượng và mình là một, không có hai. Còn khi nào qúi Phật tử thấy còn là hai? Thí dụ, qúi Phật tử thấy ánh sáng còn bên ngoài ta xung quanh ta, cái đó là cận tướng chưa gọi là quang tướng. Giống như qúi Phật tử có thử nghiệm về cái bóng của mình, vào một buổi sáng mặt trời lên qúi Phật tử ra đứng giữa sân, khi cái bóng mình nó đổ bao nhiêu là qúi Phật tử nói "ta với bóng còn có khoảng cách", nhưng tới khi mắt trời đứng ngay trên đầu ta thì lúc bấy giờ "ta với bóng là một", qúi Phật tử không thấy bóng, "bóng và ta là một, ta ở trong bóng, bóng ở trong ta". Khi mặt trời đi qua một chút nữa thì bắt đầu bóng đổ dài ra và chúng ta ra khỏi sự Nhất Thống ta với bóng. Mặt trời đứng bóng lúc đó không có bóng, người với bóng là một, qúi Phật tử mà còn thấy bóng là bóng với qúi Phật tử là hai chứ không phải là một. Trên con đường tu tập qúi Phật tử đang đi là 1 trong 8 tâm Đại Thiện đến phút cuối cùng chỉ có 4 tâm Tương Ưng Trí và con đường 4 tâm Tương Ưng Trí đó chỉ có - Chuẩn bị, Cận hành, Thuận tùng, Chuyển tập, Đắc định, ngay giai đoạn này qúi Phật tử mới chuyển bỏ Tâm Dục Giới thành người Tâm Sắc Giới, ta gọi là Chuyển Tập. Vậy thì khi qúi Phật tử đắc được thiền tâm qúi Phật tử không bao giờ có lục dục của cõi Dục Giới nữa mà tâm qúi Phật tử chỉ thấy đề mục sắc giới của các cõi trời Sắc Giới mà thôi, không có sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp, của cõi Dục Giới. Nếu tâm qúi Phật tử còn có sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp, ngay khi đó là qúi Phật tử chưa đắc thiền. Tâm thiện Sơ Thiền Sắc Giới lúc đó nó qua giai đoạn chuyển tập cắt đi những gì của Dục Giới và chỉ thấy được cảnh ở cõi Trời Sắc Giới mà thôi. Qúi Phật tử thấy sắc đèn cầy là sắc của Dục Giới. Sắc của Sơ Thiền Sắc Giới khi chúng ta đắc chứng được thiền, sắc đó là của Quang Tướng mà ta chứng đắc được thiền chứ không phải là sắc của đèn cầy của cõi Dục Giới. Hành giả đã trở thành người có tâm ở cõi Sắc Giới, vả không còn ở tâm thức của người cõi Dục Giới. Và sắc của cõi trời Sắc Giới hết sức vi tế thù thắng và không có một sắc pháp nào cõi Dục Giới so sánh được với sắc của Sắc Giới mà ta đang có, qúi Phật tử không thể nói là sắc sáng cỡ nào sáng vi tế như thế nào, sáng trong suốt trắng ngần ta không nói được, cái đó qúi Phật tử còn đang nói cõi Dục Giới ta đang nghĩ tưởng mà qúi Phật tử nói ra thôi, tại vì qúi Phật tử không có cảnh đó nên không nói được.
Thiền sinh: Thưa Sư, con muốn hỏi giai đoạn từ chuẩn bị cho tới chuyển tập thì tất cả 4 chi thiền đó phải đi liên tục với nhau, vậy từ cận hành tới nhập định có gì khác biệt? TT trà lời: Có sự khác biệt, qúi Phật tử đang đi từ cận hành tướng của ý và tới nhập định của ý, cận hành tướng này không phải là của nó, mà nhập định này không phải của cận hành tướng, cận hành tướng này vẫn còn thấy sắc cõi Dục Giới và quang tướng và nhập định là qúi Phật tử sẽ thấy sắc của sắc giới.
Thiền sinh: Thưa Sư, nếu một người chứng Sơ Thiền thì họ lên cõi Sắc Giới, họ có trở lại kiếp người nữa không? TT trả lời: Tâm của một người đắc sơ thiền cho tới ngày cận tử lâm chung họ không bị hoại thiền thì họ được sanh về cõi trời Sắc giới của tầng Sơ Thiền mà họ chứng đắc đó là Phạm Thiên Sơ Thiền Sắc Giới. Khi qúi Phật tử chứng đắc thân vẫn còn ở cõi Dục Giới nhưng tâm đã biết cõi trời Sắc Giới với tầng thiền Sơ Thiền thứ nhất, lúc đó tâm của ta không còn nghĩ tới cõi Dục Giới này và ta vẫn kiên cố gìn giữ Sơ Thiền mà chúng ta có thì chúng ta đi mãi cho tới ngày lâm chung, lúc đó cái tâm quả Sơ Thiền Sắc Giới sanh lên, tâm quả Sơ Thiền Sắc Giới có 3 chức năng. Còn tâm Đại Quả Dục Giới có 4 chức năng: Tử, tái tục. hữu phần, na cảnh, tâm đó là tâm Đại Quả có 4 chức năng. Tuy nhiên tâm quả Sơ Thiền Sắc Giới dành cho người hành giả đắc chứng tầng thiền thứ nhất ở Sắc Giới khi mạng chung mà không hoại thiền thì họ được sanh về cõi trời sắc giới họ được 3 tâm quả này sanh ra đi tái tục về cõi trời Sắc Giới, ở tại đó họ sài tâm hữu phần và họ chết tại nơi đó họ đi tục sinh nữa với tâm tử của Sơ Thiền họ chứng đắc. Khi họ về tới nơi đó tái tục thì là hóa sanh, họ sinh ra là hóa sanh không có người mẹ người cha, tại nơi đó họ tiếp tục tu ở cõi trời Sắc Giới này Tứ Vô Lượng Tâm - Từ, Bi, Hỉ, Xả là căn bản một vị Phạm Thiên nào cũng có và tiếp tục Sơ Thiền họ chứng đắc tại đó, tâm họ trở lại tâm Sơ Thiền, chứ không có món ăn nào khác và họ không có cảnh đối tượng nào khác, trở về đó tiếp tục sơ thiền ngoài ra Tứ Vô Lượng Tâm họ đang có, họ gặp Phạm Thiên này với Phạm Thiên kia là Tứ Vô Lượng Tâm họ trở về thiên cung họ đang ngồi là Sơ Thiền họ chứng đắc họ ngồi thiền tại đó tu nữa, không có thì giờ bỏ trống, họ tu nhiều hơn Chư Thiên Dục Giới, do đó họ được mệnh danh là Phạm Thiên là một vị Thiên có đời sống phạm hạnh. Còn Chư Thiên Dục Giới còn hưởng lục dục họ còn vui chơi trong cõi dục của họ, do đó mức độ tu của họ cao hơn mức độ của Chư Thiên Dục Giới. Trở lại kỹ thuật. Khi qúi Phật tử đi từ cận tuớng đi qua quang tướng có 2 cái phải đối diện: Thứ nhất là ngay tại cận tướng qúi Phật tử đã qua được cận tướng kiên cố, Lộ Ý qúi Phật tử bền vững và không còn ở vị trí thô tướng của chuẩn bị tướng mà chúng ta còn phải Ngũ và Ý. Ở nơi cận tướng muốn qua giai đoạn quang tướng phải qua hai giai đoạn, thứ nhất là không còn pháp nghịch, thứ hai là không còn nghiệp báo, lúc bấy giờ qúi Phật tử mới đi được, phải thanh lọc 2 cái đó để có, không có pháp nghịch và không còn nghiệp báo qúi Phật tử mới đi tiếp được Có những người đi tới cận tướng nghiệp báo trổ sanh ra đứt liền, như Đề Bà Đạt Đa đắc ngũ thiền rồi hiện bày thần thông cảm hóa chinh phục được vua A Xà Thế nhưng nghiệp báo và pháp nghịch trổ sanh lên rớt mất thiền mất luôn thần thông. Nên kỹ thuật nào cũng vậy và phương pháp tu nào cũng vậy, tới lúc đó qúi Phật tử không có pháp nghịch và không còn nghiệp báo, những nghiệp báo đó ta phải đè xuống, lấy đá đè cỏ chứ không phải là diệt hết nghiệp trừ khi đắc đạo quả Alahán thôi, nhưng thiền lúc đó nghiệp nào lên qúi Phật tử phải đè xuống. Chẳng hạn đang ngồi thiền mà nghe con khóc phải dứt khoát đè xuống để an trú trong đề mục của mình, không phải vì con khóc mà xả thiền ra là nghiệp báo làm qúi Phật tử không ngồi thiền được. Qúi Phật tử sẽ thấy kỹ thuật quyết liệt cho hành giả nhiều trăn trở trong lúc tu tập là pháp nghịch và nghiệp báo, qúi Phật tử sẽ không qua được pháp nghịch thì không đạt được kết quả, qúi Phật tử không vượt qua được nghiệp báo thì không đạt được kết quả, 2 cái đó là trăn trở thiết yếu hành giả phải đối diện và lúc đó mình thấy mình có phước hay không có phước. Do đó, ở đây con đường tu tập của ta có 2 đối tượng chúng ta phải thấy, có khi là đối tượng là đề mục của ta đang chọn chẳng hạn như ngọn lửa là đối tượng ta chọn nhưng đối tượng có khi lại là pháp nghịch là đối tượng ta phải diệt, qúi Phật tử phải nhớ nhiêu đó, một là đối tượng chúng ta phải chọn chúng ta phải nhắm tới đạt được, hai là đối tượng là pháp nghịch ta phải diệt. Diệt được pháp nghịch ta đạt được đối tượng ta đắc được định. Qúi Phật tử không qua được 2 giai đoạn đó qúi Phật tử không tới được, đó là thứ nhất. Thứ hai, khi ta ngồi tu thiền, cái nghiệp đến nếu qúi Phật tử không kiểm thúc điều ngự các pháp một cách khôn khéo, qúi Phật tử phải nhớ tham sanh lên dễ dàng, trạo hối sanh lên dễ dàng qúi Phật tử chỉ lơ đễnh một chút phóng dật một chút, chủ quan một chút rớt liền ở tại đó, không nói đó là nghiệp được, "đường tu tôi vụng về tôi bị nghiệp cản", không nói như vậy được, đó chỉ là một pháp nghịch, nhưng mà pháp nghịch đó đã là pháp nghịch nó không lớn mà qúi Phật tử phải dùng cái tâm để thấy được cái tâm mình có qua được pháp nghịch đó không, đó là điều mình nói tới. "Đường đi không khó mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Thì pháp nghịch không lớn, Sư muốn nói sợ là nghiệp báo, cái nghiệp báo không ai giải đáp được, qúi Phật tử có gặp bao nhiêu pháp nghịch nói Sư, Sư giải đáp được nhưng mà nghiệp nó đến với qúi Phật tử Sư không giải đáp được cho qúi Phật tử, Sư chỉ gia cố gia lực với qúi Phật tử với những cái gì mà Balamật của Sư đang có với qúi Phật tử thôi chứ Sư không giải đáp nhiều. Nói tới nghiệp, qúi Phật tử không thể nào cắt đứt nghiệp mà qúi Phật tử phải chạy ra khỏi nghiệp, khi qúi Phật tử gieo trồng cái nghiệp từ lúc nào không biết hôm nay nghiệp trổ ra từ gốc nào để tìm mà cắt ra. Qúi Phật tử gieo nghiệp ở góc độ nào thời điểm nào bây giờ nghiệp trổ quả mà qúi Phật tử tìm được cái gốc đó qúi Phật tử cắt, qúi Phật tử không tìm được cái gốc đó quả nó rớt xuống qúi Phật tử phải đón nhận. Qúi Phật tử nói cái đó qúi Phật tử nhận hay không nhận, qúi Phật tử bỏ chạy thôi chứ không thể nào đi tìm được cái gốc để chặt đứt nó được, ta chạy thoát nghiệp chứ ta không cắt đứt được nghiệp. Với người tu là chạy vượt thoát khỏi nghiệp nó rượt đuổi theo nó bắt mình chứ không thể qúi Phật tử ngồi cắt đứt được gốc rễ của nghiệp báo đang trổ sanh qúi Phật tử đang trả, vô lượng nghiệp quá khứ ta đã gieo nó trổ ra mình chạy chứ không phải ngồi xuống để tìm cái gốc để cắt, chỗ nào qúi Phật tử tìm ra được biết để cắt, do đó, người không hiểu mà ngồi thiền để tìm để cắt được cái rễ một gốc rễ của nghiệp, người đó Đức Phật nói là người thiểu trí, không để thì giờ mà than thở về cái nghiệp của mình đã có. Và khi qúi Phật tử tu tập được cái phước nó trổ sanh lên thì qúi Phật tử đang tạo phước phát sanh ra như vậy qúi Phật tử hưởng cùng một lúc đang trả lúc đó còn đỡ hơn chỉ ngồi than thở mà không có cái gì để hưởng phước được. Qúi Phật tử nghèo thiếu nợ mà không đi làm để kiếm tiền trả nợ thì không cách nào trả nợ được. Đường tu hành chúng ta cũng vậy, hôm nay ta nghèo vì ta là người thiếu nợ không chịu làm việc thiện chúng ta phải trả nợ mà chúng ta không có vốn để trả và không có vốn để sống thì cách nào mà sống được. Do đó, vì vô minh trong quá khứ ta đã vụng tâm vụng tu, hiện nay ta biết ta phải vun bồi cái tâm ta vun bồi trong nghiệp thiện, chứ không thể nào ngồi than thở về nghiệp của ta được. Do đó, đó là pháp nghịch và đó là đối tượng ta đối diện, nhưng giữa cả hai đối tượng và pháp nghịch và, giữa pháp nghịch và nghiệp báo tất cả đều chung một điểm là tâm của qúi Phật tử làm được và cái tâm đó qúi Phật tử biết, còn qúi Phật tử không biết đối tượng, không biết pháp nghịch mạnh nhẹ, lớn nhỏ, về nghiệp qúi Phật tử không biết, qúi Phật tử phải làm được cái tâm mình. Kẻ thù nó đến một đứa qúi Phật tử sợ, kẻ thù đến 2 đứa qúi Phật tử sợ, kẻ thù đến 10 đứa qúi Phật tử sợ, sợ bởi cái tâm của qúi Phật tử không dám đối diện với nó, tất cả đều là sợ, còn qúi Phật tử thấy và hiểu được cái tâm mình, 1 hay 10 đều trong tâm mình quyết định và giải quyết được. Do đó, với con đường tu của ta cũng vậy thôi, thô tướng ở đây có ta đập nó, qúi Phật tử phải nhớ khi ta học về Siêu Lý Abhidhamma thì thô tướng, cận tướng, quang tướng đều là chế định cả. Hôm nay ta gọi là thô tướng, ngày mai chúng ta có gọi là cận tướng, bữa kia ta nói là quang tướng, ta đặt ra hay là vị Thiền Sư đặt ra hay là phương pháp họ đặt ra để qúi Phật tử thấy đó là như vậy đó qúi Phật tử đang đi tới giai đoạn đó. Nhưng mà không có bằng con đường Siêu Lý, mà Siêu Lý chỉ là Tâm. Tâm nhìn thấy Chế Định và Tâm giải quyết được những cái tướng ta đang đi tới. Thô tướng chỉ là Chế Định, Cận Tướng chỉ là Chế Định, giữa con người này với người kia qui ước với nhau để biết được mức độ cao thấp của người đó đang tu, đó là một chế định. Nhưng, cái Tâm của mình mới là Siêu lý. Cái Siêu Lý đó không có được gọi là qui ướt mực thước nào để mà đo được, qúi Phật tử sẽ qua được. Trên con đường ta tu tập không có gì khó, trên con đường ta tu tập đây chỉ là một sự Chế Định nhân gian cho chúng ta có một mức độ ta đang tu nhưng quan trọng là qúi Phật tử bền chí, bền quân hơn là thắng giặc, sự miệt mài của qúi Phật tử sẽ thành tựu trong sự nhẫn nại của qúi Phật tử sẽ có kết quả trong một ngày nào đó chứ không mất. Sư nói để qúi Phật tử làm gương, cái gương đây là chính bản thân Sư không ngừng, luôn luôn phải ngồi xuống. Qúi Phật tử làm gì thì làm qúi Phật tử phải ngồi xuống coi cái tâm của mình thì mỗi ngày qúi Phật tử bỏ ống đầu tư chắc chắn tư lương đó không phụ qúi Phật tử. Còn trong cuộc đời này qúi Phật tử không bỏ vốn trong đó thì cuộc đời này chỉ có những oan gia nghiệp báo luân hồi, pháp nghịch những đối tượng luôn luôn chồng chất trong chế định làm cho tâm qúi Phật tử mất đi góc độ Siêu Lý qúi Phật tử không có ánh sáng. Đó là điều Sư muốn trình bày với qúi Phật tử là vậy. Khi Sư rời khỏi lớp học về tới phòng, điều đầu tiên Sư đảnh lễ Phật, tri ân Ngài mà hôm nay Sư có được giáo pháp, kế tiếp là Sư coi bài vở kinh sách, đó là điều không bao giờ Sư bỏ qua, kinh sách không bao giờ đủ với Sư, lúc nào Sư cũng có kinh sách để Sư đọc thêm. Như vậy đó mà Sư cũng phải ngồi xuống coi cái tâm mình, mà qúi Phật tử ngồi xuống qúi Phật tử mới thấy được những kinh nghiệm qúi Phật tử có và so sánh giữa cái trước và cái sau qúi Phật tử mới có hướng đi mình mới thấy được con đường đi của mình được. Qúi Phật tử không bền, không có cách nào so sánh để có hướng đi của qúi Phật tử được một cách bền bỉ mà có rõ ràng hướng đi của mình. Đó là điều Sư muốn nói với qúi Phật tử. Qúi Phật tử thấy khoá tu thiền nào qúi Phật tử ngồi Sư ngồi, cái đó là cái thường nhiên không có gì mới lạ với cuộc sống của qúi Phật tử, cái đó Sư đi được, cái đó Sư đến với qúi Phật tử được và Sư theo dõi và Sư hiểu qúi Phật tử được, qúi Phật tử phải làm. Trong khi ta làm luôn luôn không được quên tâm Bất Tương Ưng Trí. Qúi Phật tử mà thấy tâm có trạng thái Bất Tương Ưng Trí là qúi Phật tử mất cơ hội ngồi trong thiền, luôn luôn phải nhớ là tâm Bất Tương Ưng Trí hại ta vô cùng, không có trí tuệ là hại ta vô cùng con đường tu tập nào cũng vậy, do đó qúi Phật tử không được quên khi có tâm Bất Tương Ưng Trí. Và tâm Bất Tương Ưng Trí đó là cảnh báo nhắc nhở người tu phải có trí, và không có trí không có kết quả, không có kết quả thì không có thành công được. Và qúi Phật tử không phải cần nhắc nhở, Hữu Dẫn là nhắc nhở, Vô Dẫn là tự giác, cái đó là điều cần thiết. Khi qúi Phật tử ngồi xuống qúi Phật tử phải biết được cái điều qúi Phật tử phải làm là Vô Dẫn chứ không phải cần nhắc nhở, những điều gì chúng ta cần phải làm chúng ta biết được. Và khi chúng ta chưa có khả năng, khi ta còn yếu tâm, qúi Phật tử phải làm sao cho đối tượng mạnh hơn ta để tâm ta gắng vô đó để ta có điểm tựa ta mới yên ổn được. Khi qúi Phật tử đi học tu mà qúi Phật tử thấy mình giỏi hơn người ta là qúi Phật tử không có điểm tựa nào để đi tới . Khi qúi Phật tử đi học tu thấy mình yếu hơn tất cả mọi người lúc đó mình mới có điểm tựa bám được để tu học được, cái đó là quan trọng. Sư học với Ngài Tịnh Sự Sư đã học gần hết toàn bộ Abhidhamma mà Sư vẫn hỏi Ngài những điều còn thắc mắc, Ngài nói những điều đó ông biết rồi mà còn hỏi, Sư không phải giả dối mà Sư vẫn cầu Ngài cho Sư kinh nghiệm qua kiến thức của Ngài, cái kiến thức trong sách vở Sư đã đọc rồi Sư vẫn cầu kinh nghiệm Sư không thấy yếu tâm. Một lần, Ngài gục ngã trên cái giường ghế bố của Ngài, lúc đó Ngài vừa dạy Sư xong Ngài gục ngã liền, thì Ngài vừa tỉnh lại thấy Ngài thở một hơi dài ra Ngài tỉnh lại Sư nói; - "Bạch Ngài khi Ngài gục ngã Ngài có biết tâm Ngài không?" Ngài nói Ngài biết. - "Lúc đó cái gì Ngài biết Ngài chỉ cho con biết cái đó" Ngài nói: "nó làm tôi khó chịu, nó làm tôi thấy tâm tôi đang chạy với nó, nó làm cho tôi hiểu là phải giải quyết nó, mà chưa kịp làm thì xỉu". Thì: 1) Khi thấy khó chịu là đối tượng. 2) Vượt qua không kịp nó là pháp nghịch. 3) Vừa muốn giải quyết, thì gục ngã liền là nghiệp. Ba bước đi mà thấy khó, qúi Phật tử không thấy đưọc 3 bước đi đó qúi Phật tử không thấy con đường mình đi. Đối tượng đến trước và pháp nghịch đang đánh qúi Phật tử và qúi Phật tử gục ngã với nó liền là nghiệp, 3 bước đó là như vậy đó. Vừa thấy đối tượng xong đằng sau đối tượng là pháp nghịch, pháp nghịch vượt qua chưa được cái nghiệp nó đến. Do đó qúi Phật tử sẽ thấy những cái đó nó thuộc loại nó xem mạnh trong lộ ý môn, cái ý môn làm cho qúi Phật tử có ý môn tiếp, ý môn tiếp đó qúi Phật tử mới thấy được con đường tu tiếp đến đạo quả Niết-bàn, không có cái nào khác hơn. Chúng ta thấy đối tượng chúng ta thấy pháp nghịch và khi pháp nghịch chúng ta vượt qua được là nghiệp nó đến ./.