Back
Pháp Học và Pháp hành, Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp Bài học hôm nay là
Abhidhammattha Saṅgaha
được dịch là - Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp Trước hết, từ Abhidhammattha Saṅgaha được chia ra như sau:
Abhi
nghĩa là vô tỷ, là thù thắng, là tối thượng.
Dhamma
nghĩa là pháp
Attha
nghĩa là nội dung
Saṅgaha
nghĩa là tổng hợp Vô Tỷ Pháp nghĩa nguyên gốc là
Abhidhamma
. Vậy thì môn học hôm nay chúng ta sắp học là
Abhidhammattha Saṅgaha
được dịch ra là Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp. Ngài Tịnh Sự dịch là Vi Diệu Pháp, nhưng đến cuối đời Ngài, trước khi Ngài mất thì Ngài xin đổi từ chữ Vi Diệu đổi thành Vô Tỷ, tại vì ý nghĩa của Vô Tỷ là Bất Tỷ Giảo là không so sánh được, không pháp nào so sánh bằng pháp này, do đó Ngài đổi qua là Vô Tỷ Pháp hay gọi là Bất Tỷ Giảo. Ngài HT Minh Châu, viện trưởng viện Phật Học Vạn Hạnh ở Việt Nam, Ngài dịch bộ Abhidhammattha Saṅgaha là Thắng Pháp Tập Yếu Luận Chữ Thắng Pháp là nghĩa của chữ Abhi là thù thắng, Pháp dịch từ chữ Dhamma. Luận thì không có nghĩa.
Abhidhammattha Saṅgaha
không phải là một luận giải, mà là bộ sách trình bày giáo pháp cao siêu do Đức Phật Ngài thuyết giảng trong Tạng Abhidhamma, cho nên Thắng Pháp Tập Yếu Luận là ý của Ngài HT Minh Châu nói về Saṅgaha là Tập Yếu, Attha là nội dung để luận giải ra nên đặt là Thắng Pháp Tập Yếu Luận. Ngài Trưởng Lão Narada Ngài dịch là Vi Diệu Pháp Khái Lượt từ Abhidhammattha Saṅgaha. Xưa nữa, Ngài Tịnh Sự dịch là Siêu Lý Hợp Đồng. Do đó các sử liệu về Abhidhammattha Saṅgaha mà qúi Phật tử có đọc qua là từ Siêu Lý Hợp Đồng. Có một vài nơi dịch là A Tỳ Đàm đó là người Trung Hoa âm từ chữ Abhidhamma, A Tỳ Đàm Tập Yếu Luận. Còn một vài nơi nữa dịch là A Tỳ Đàm Giáo Tài Yếu Luận Có rất nhiều tên được đặt ra đôi khi có sự sai biệt, do đó chúng ta chỉ cần học nội dung là chính yếu, còn từ ngữ tùy theo người dịch mà có góc độ khác nhau. Đến ngày hôm nay bộ môn Abhidhammattha Saṅgaha vẫn còn tồn tại trên thế gian này và các trường Phật học quốc giáo nổi tiếng trên thế giới như Campuchia, Thái Lan, Miến Điện đều lấy làm môn học giảng dạy tại các trường đại học Phật Giáo quốc tế, do đó giá trị của bộ môn học chúng ta đang học đây có chiều sâu và độ cao, qúi Phật tử cần nắm bắt được để được lợi ích cho việc tu tập của mình. Vậy thì, nói tóm lại bộ môn chúng ta đang học là Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp (Bộ Abhidhammattha Saṅgaha) là bộ chú giải, bao gồm tất cả 9 chương, do một vị Tỳ Khưu người Ấn Độ tên là Anruddha biên soạn ra dựa theo 7 bộ Tạng Abhidhamma. (Vị Tỳ Khưu Anruddha này không phải là vị Thánh Tăng Alahán Anruddha thời Đức Phật còn tại thế.) Xin nói rõ điều này, dựa trên 7 bộ Tạng Abhidhamma, khi Đức Phật Ngài còn tại thế Ngài không nói qua Tam Tạng. Trong 45 năm, Ngài thuyết Dhamma và Vinaya, tức là Ngài chỉ nói Pháp và Giới Luật mà thôi, sau khi Ngài viên tịch Niết-bàn các Tỳ kheo phân tách thành ba bộ gọi là Tam Tạng, lấy từ Dhamma, họ thấy căn cơ chúng sanh khó học khó hiểu nên các Ngài tách làm hai, đầu tiên cái gì dễ nghe dễ biết đặt ra là suttanta, cái gì khó nghe khó hiểu đặt ra là Abhidhamma. Suttanta dịch là Kinh, Abhi là Vô Tỷ, do đó các vị chú giải tách ra làm ba: 1. Đầu tiên là Vinaya piṭaka - gọi là Luật Tạng 2. Thứ hai là Suttanta piṭaka - gọi là Kinh Tạng 3. Thứ ba là Abhidhamma piṭaka - gọi là Vô Tỷ Pháp Tạng Thì suốt 45 năm Đức Phật thuyết hai loại pháp là Dhamma và Vinaya gọi là Pháp và Luật gồm 84 ngàn pháp môn hay còn gọi là pháp uẩn, trong 84 ngàn pháp môn phân biệt ra thì Luật tạng có 21 ngàn, Vô Tỷ có 42 ngàn, Kinh Tạng có 21 ngàn, tổng cộng chúng ta có 84 ngàn pháp môn. Trong phần chúng ta học ở đây qúi Phật tử sẽ được học qua bộ Abhidhammattha Saṅgaha dựa trên 7 bộ của Tạng Abhidhamma cần thiết chúng ta nắm bắt được. Tạng Abhidhamma là Tạng thứ ba có 7 bộ: Nếu chúng ta thực tế đi vào trong Chánh Tạng mà học thì không học nổi, chưa có người nào có khả năng đọc thẳng vô trong đó mà hiểu hết tất cả nội dung bộ Abhidhamma, ngày hôm nay tất cả các vị Chư Tăng, Cao Tăng, những vị Trưởng Lão học và nghiên cứu và viết ra gọi là chú giải mình mới hiểu được chứ không hiểu được. 1. Bộ thứ nhất là bộ Pháp Tụ 2. Bộ thứ hai là bộ Phân Tích 3. Bộ thứ ba là bộ Nguyên Chất Ngữ 4. Bộ thứ tư là Nhân Chế Định 5. Bộ thứ năm là bộ Ngữ Tông 6. Bộ thứ sáu là bộ Song Đối 7. Bộ thứ Bảy là bộ Phát Thú. Tuần sau chúng ta bắt đầu sẽ có lớp học Phát Thú là bộ môn thứ 7. Hôm nay chúng ta học chú giải bộ Abhidhamma. Khi học Phát Thú là qúi Phật tử bắt đầu luận giải hết tất cả các pháp, không nói thông thường như bên Kinh Tạng được. 1) Bộ Pháp Tụ là, tất cả các pháp trên thế gian này trong tam giới tụ lại trong bộ Pháp Tụ này, Đức Phật Ngài gom hết tất cả vào, lúc đó qúi Phật tử học bộ môn Pháp Tụ này khi đó sắc giới, vô sắc giới, bất thiện, vô ký có trong bộ Pháp Tụ. Thí dụ, người ta đánh mình một cái vào vai mình thì đó là pháp bất thiện hay người ta chửi mình đó là pháp bất thiện, lúc đó qúi Phật tử không nhìn thấy người ta đánh mình mà chỉ nhìn thấy pháp mà thôi, người ta chửi mình không nhìn thấy người ta chửi mà chỉ nhìn thấy pháp mà thôi. Còn khi là Pháp bất thiện hay là pháp thiện, hay là pháp vô ký là pháp quả nó kết tụ vô cho mình thấy được là pháp hiện tại trong dục giới, hiện bày trong sắc giới nằm hết trong bộ Pháp Tụ, pháp hiệp thế, pháp siêu thế pháp đạo pháp quả pháp Niết-bàn đều nằm trong bộ Pháp Tụ, do đó nội học xong quyển Pháp Tụ là giải thoát đắc đạo quả rồi. 2) Bộ Phân Tích, bắt đầu chia sẽ ra. Thế thì khi pháp thiện, thiện hiệp thế, thiện siêu thế bắt đầu mổ xẻ ra. Người bố thí, để bát cho nhà sư hay là cúng dường in ấn tống sách, khi nói đến bố thí thì ở đây có hai loại trường hợp hay là không có hai loại trường hợp, qúi Phật tử thấy hành động người ta bố thí, ấn tống kinh sách gồm có mấy loại thiện trong đó, khi người ta bố thí, ấn tống kinh sách người ta làm trong tâm thiện nào? thì trong bộ Phân Tích đã phân tích ra là vì nhân sanh đến đạo quả Niết-bàn, vì phước báu sanh thiên, vì muốn có trí tuệ, vì có những tác ý đó thì họ làm thiện, còn mình đây thấy người ta làm mình làm theo thì việc thiện đó không có trí, hoặc người ta vui người ta làm, thì khi phân tích ra như vậy thì mình mới biết giá trị của việc làm thiện ở đó gặt hái được bao nhiêu. Thì bộ Phân Tích sẽ phân tích những điều đó, chia chẻ rõ ràng như vậy mới thấy rõ, tại sao hai người cùng làm việc chung nhau mà người này được hưởng phước báu nhiều hơn, người kia hưởng phước báu ít hơn là, từ nơi tác ý của họ hay là từ nơi tâm của họ khi làm việc thiện đó họ có sự tác ý chu đáo hơn hay chi tiết kỹ lưỡng hơn. Điều đó làm cho hai người khác biệt nhau. Thì khi chúng ta nắm được bộ Phân Tích này, học được sự phân tích này, hiểu được sự phân tích này, từ đây trở về sau người ta làm người ta biết con đường đạo quả của người ta nhanh hay chậm. 3) Bộ Nguyên Chất Ngữ, tất cả các pháp nó có bản thể của nó, hay là có nguồn gốc của nó, hay nó có tính cách của nó, thì chúng ta phải biết, dẫn chứng thí dụ cho chúng ta thấy, thí dụ một pháp thiện là pháp tốt là pháp không xấu. Khi nói đến pháp thiện mình phải tách làm hai pháp là: Pháp là = nguồn gốc, là khởi sanh, đưa tới, dẫn dắt. Thiện là = việc tốt, làm tốt, tạo tốt, được hưởng tốt Như vậy, Pháp thiện là: nguồn gốc của việc tốt, khởi sanh của việc làm tốt, đưa tới việc tạo tốt, dẫn dắt tới việc hưởng tốt Đó là pháp thiện theo Nguyên Chất Ngữ. Khi ta nói nguyên tắc nữa là giải đáp được vấn đề chứ còn không chúng ta không hiểu vì chỉ nói qua thôi. 4) Bộ Nhân Chế Định, người trời hay chúng sanh tất cả đều thuộc nơi đây, khi ta biết ta ở vị trí nào thì ta mới biết ta đang có sự sống tại đó, khi chúng ta không biết ta đang ở vị trí nào ta đang sống ở đâu thì chúng ta không hiểu được con người chúng ta. Chúng ta là chúng sanh, có 12 hạng là : trời có hai là Chư Thiên dục giới và Phạm Thiên, thì Phạm Thiên có hai là sắc giới và vô sắc giới, người, súc sanh, atula, ngã quỉ, địa ngục. Chúng ta ở cõi người, chúng ta ở giữa cỗi trời và cõi khổ (súc sanh, atula, ngã qủi, địa ngục) là có sự liên lạc với trời với cõi khổ. Vậy thì khi đang ở cõi người mà ta làm những hành động ở cõi khổ là ta có sự liên lạc với khổ thú. Và nếu ta đang ở cõi người mà làm những hành động như ở cõi trời thì ta có sự liên lạc với cõi trời Chư Thiên và Phạm Thiên. 5) Bộ Ngữ Tông là những điểm tranh luận, khi qúi Phật tử học đến bộ Ngữ Tông này có 500 câu hỏi và trả lời, 500 câu hỏi này tranh luận tất cả của các tông phái trên thế gian này về Phật giáo được ghi trong 500 câu hỏi này, tất cả các thắc mắc về Phật Giáo trên thế gian này được giải thích trong bộ Ngữ Tông. 6) Bộ Song Đối, rất hay, khi Phật tử học tới bộ Song Đối này thì tất cả các câu đối chiếu nhau từng câu, mỗi câu có câu hỏi và trả lời, hỏi một cách đối chiếu nhau về Uẩn, Xứ, Giới, Đế, tất cả có trong bộ Song Đối này. 7) Bộ Phát Thú là bộ phát xuất ra, phát thú là xuất phát ra chỗ nơi, còn gọi là trú xứ, tất cả pháp được xuất phát ra từ nơi nào, học bộ này qúi Phật tử sẽ thấy được Duyên Sinh, và Duyên Hệ. Học bộ thứ bảy này là chúng ta sẽ được học nơi trú xứ phát xuất ra tất cả mọi sự việc trên đời này qua duyên sinh duyên hệ, Vậy thì bộ môn chúng ta đang được học đây là bộ môn Tổng Hợp Nội Dung Vô Tỷ Pháp, là bộ chú giải gồm 9 chương được rút lại tất cả những nội dung chính yếu của 7 bộ thuộc Tạng Abhidhamma viết ra thành quyển sách này. Khi chúng ta học Abhidhamma sẽ giải đáp cho chúng ta biết 3 điều cần thiết 1. Cái chi ở trong ta 2. Cái chi ở ngoài ta 3. Cái chi ta muốn thành đạt Đối với chúng ta là người Phật tử đến với Phật Pháp qua lời dạy của Đức Phật, chúng ta có những gì thắc mắc, cái chi ở trong ta, ta cũng đều thắc mắc, cái chi ở ngoài ta, ta cũng đều thắc mắc, cái chi ta muốn thành đạt ta cũng đều thắc mắc, đó là những lời dạy của Đức Phật mà chúng ta thắc mắc. Thí dụ, khi qúi Phật tử đến chùa, đến với Chư Tăng, đến với nhà Sư, qúi Phật tử đặt câu hỏi đầu tiên: "Tại sao con sống trên đời này khổ quá thưa Sư". Thì khi qúi Phật tử nghe một số Phật tử đến chùa họ nói "khổ quá", thì qúi Phật tử nghe tiếng "khổ quá" nghe quen. Trước khi học Phật Pháp thấy khổ ít , khi học Phật Pháp thấy khổ nhiều, học xong hết thì thấy quá khổ. Như vậy là, khi ít biết thì ít khổ, càng biết nhiều thì khổ nhiều, mình chưa được giải thoát mỗi cái mình đều sợ tội. Khi không biết, làm điều gì cũng không sợ, nhưng khi biết rồi thì sợ tội. Thí dụ có một anh học về vi trùng học. Lúc anh học chưa biết anh sống thoải mái lắm, quần áo bê bối, nhưng khi học xong môn vi trùng học, khi ra đường không dám gặp ai hết vì chung quanh toàn là vi trùng thấy đâu cũng có vi trùng. Thì khi mình chưa biết thì mình thấy khổ ít thôi. Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta là chúng ta đang tạo thiện và đang tạo tội, nghĩ xấu, nói xấu, làm việc xấu, có hết, khi nào giải thoát thì mới không tạo tội. Đời khổ quá, tại sao ta biết như vậy mà chưa được giải thoát. Khi chưa biết thì làm việc bất thiện nhiều, khi biết rồi làm việc bất thiện ít hơn và nhiều thiện hơn, rồi hết bất thiện toàn là việc thiện, thì toàn thiện có hai là Hiệp Thế và Siêu Thế. Do đó càng ít biết càng ít đòi hỏi để mau thoát khổ, còn biết nhiều càng đòi hỏi nhiều thì càng khổ nhiều. Vậy thì. Học Abhidhamma để biết: 1) Cái gì trong ta. Ở trong ta có tâm, thân (danh và sắc) 2) Cái gì ngoài ta. Ở ngoài ta có cảnh: đối tượng của tâm và thân duyên vào 3) Cái gì ta muốn thành đạt. Ta muốn thành đạt giác ngộ. 1) Cái gì trong ta, đó là: khổ ít Đức Phật nói Tâm nằm trong hang trú xứ của nó, không hiện bày ra bên ngoài cho ta thấy được nó, khi nó có đối tượng của nó (cảnh) nó mới hiện bày ra, lúc đó mình mới thấy Tâm, lúc đó mình mới hiểu được Tâm, mà đối tượng thay đổi luôn luôn. Học Abhidhamma sẽ giải đáp được thân của mình, cái mà mình hoàn toàn chưa biết được thân mình, mình săn sóc nó mỗi ngày, săn sóc từng giai đoạn nhưng thân này thay đổi làm ta không biết được nó. Còn những thành phần suy nghĩ, những thành phần tạo tác bên trong là danh càng mù mịt hơn nữa và những gì sắc thay đổi từng mỗi chi tiết nhỏ chúng ta không hiểu được đâu, Có người dở chân lên nhẹ, có người dở chân lên mạnh. Có ba loại sắc trong người chúng ta mà mình không biết đó là, nhẹ, mềm, thanh thoát. Khi mình có đủ ba sắc pháp đó mình bước đi nhẹ nhàng mềm mại và thích hợp bước chân đi, còn khi ba pháp đó không có, nhẹ, mềm và thanh thoát thì khi bước chân đi nặng nề và không thích hợp. Do đó tại sao chúng ta thấy người già đi lụm khụm, đôi khi người trẻ cũng có người đi lụm khụm như vậy, không ai giải thích được điều đó, bước đi của mình mình không hiểu được, rồi mình không hiểu được giai đoạn này có, giai đoạn sau thì không có, qúi Phật tử ngồi thời gian lâu chân bị tê, ai cho qúi Phật tử biết hay là có thể nào qúi Phật tử biết giai đoạn nào chân bị tê, giai đoạn nào không bị tê chân, mình là chủ cái thân này mà mình không biết lúc nào chân bị tê. Khi mình bị tê mà mình biết mình bị tê rồi , khi đứng lên mình bị té xuống liền, khi đó mới thấy ta không làm chủ thân ta được. Thì đó là sắc thân mình, biết mình đang mang đây là một khối nặng trên vai mà mình mang hoài không buông xuống, không biết lúc nào mình buông khối nặng đó xuống, không ai biết được. Do đó, học Abhidhamma giải đáp được cái gì ở trong ta mà chúng ta ưu tư suy nghĩ chưa giải quyết được. 2) Cái gì ngoài ta? đó là biết nhiều khổ nhiều Cảnh của tâm, cảnh của thân hiện bày, nhưng do duyên đến, mình sẽ thấy một vật ưa thích, một đối tượng khó chịu không thích, những điều này trong cuộc sống hàng ngày mình không quyết định được, bởi những điều này do duyên đưa ra và duyên này mình không quyết định được. Chính do đó học Abhidhamma sẽ giải đáp được cái gì ngoài ta. Chính cái đó Abhidhamma sẽ giải đáp cho qúi Phật tử khi nào qúi Phật tử sẽ có vật ưa thích, mình muốn mà không được và sẽ được, khi nào qúi Phật tử muốn không gặp đối tượng khó chịu và không phải gặp, sẽ được giải quyết đối tượng khó chịu này như qúi Phật tử mong muốn được giải đáp hết. Do đó Abhidhamma sẽ làm cho mọi thắc mắc những cái gì mà qúi Phật tử đặt nhiều câu hỏi, sẽ giải đáp tất cả trong Abhidhamma như qúi Phật tử muốn. 3) Cái chi ta muốn thành đạt Cái chi ta muốn thành đạt, quá nhiều khổ tại vì ta chưa giải thoát. Cho nên "cái chi ta muốn thành đạt" đó là, Giác Ngộ và Giải Thoát. Khi nào qúi Phật tử được giác ngộ? đó là bỏ hết tham, sân, si và nhận biết được tâm của mình, không còn dính mắc. Chúng ta muốn thành đạt là giác ngộ thì: - Bỏ tham sân si. - Không còn dính mắc. - Nhận biết được tâm của mình. 1). bỏ tham sân si, cái gì ta muốn thành đạt là bỏ tham sân si, thì cách nào ta diệt được tham sân si, muốn bỏ tham sân si thì phải tu tập Giới, Định, Tuệ. 2). Không dính mắc, ở trên đời này chúng ta có ba dính mắc, dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Ở trong đời chúng ta có ba dính mắc mà chúng ta tìm không ra. 3). Nhận biết được tâm, khi chúng ta nhận biết được tâm, để tìm hiểu được nó là phải tìm được trú xứ của tâm. Những cái này chúng ta tìm ra được mới gọi là giải thoát. Nếu như chúng ta chưa tìm ra được thì chúng ta chưa tìm ra được giải thoát. Vậy thì chúng ta muốn được giải thoát thì chúng ta phải hành đạo, chúng ta phải tu tập. Xuất xứ của Tạng Abhidhamma. Tạng Abhidhamma là một Tạng có 42 ngàn pháp môn do Đức Phật Ngài thuyết giảng tại nơi cung trời Đao Lợi vào hạ thứ 7 để độ Sư Mẫu Cuộc đời của Đức Phật có 45 hạ lạp. Từ một tuổi cho đến 29 tuổi ở trong hoàng cung, 29 tuổi xuất ly trên con đường tu tập 6 năm là 35 tuổi đắc đạo quả, 35 tuổi cho tới 80 tuổi Ngài viên tịch Niết-bàn, Ngài có 45 năm hành đạo. Thì hạ thứ 7, lúc 42 tuổi Ngài lên cung trời Đao Lợi (Tvatimsa) còn gọi là Tam Thập Tam Thiên là cõi trời 33 vị trời cai quản. Tới năm 42 tuổi Ngài lên cung trời Đao Lợi thuyết cho hoàng hậu Māyā và 800 triệu Chư Thiên trong suốt 3 tháng của cõi nhân loại. Trong Kinh kể rằng: Chư Thiên không thích ngồi lâu, ĐĐ Mục Kiền Liên một hôm ở dưới cõi nhân loại lên cung trời Đao Lợi thấy rõ một Thiên tử, ngày xưa là một đệ tử tu tập của mình, hôm nay gặp ở cung trời Đao Lợi vị này chỉ chào một cái rồi đi luôn, kế đến gặp người Thiên tử thứ hai ngày xưa cũng là tỳ kheo học trò của mình cũng chỉ chào một cái rồi đi luôn, rồi gặp một người thứ ba cũng từng là học trò của mình cũng chào một cái rồi đi luôn. Ngài Mục Kiền Liên đem câu chuyện xuống hỏi Đức Phật, Đức Phật nói này Mục Kiền Liên, Chư Thiên không muốn gặp thầy là vị họ lo đi vui chơi, họ sợ mình quấy rày họ. Nên Đức Phật Ngài biết như vậy Ngài lên cõi trời Đao Lợi thuyết trong 3 tháng tính theo nhân loại cho Hoàng Hậu Māyā và 800 triệu Chư Thiên với thời gian một khảy móng tay của cõi Chư Thiên mà thôi, sau đó tất cả Chư Thiên và 800 triệu Chư Thiên đắc sơ quả, là tầng quả thứ nhất của bậc Thánh là Tu Đà Hườn hay còn gọi là Thất Lai. Như vậy thì xuất xứ Tạng Abhidhamma do chính Đức Phật Ngài thuyết vào hạ thứ 7 tại cung trời Đao Lợi cho Hoàng Hậu Māyā và 800 triệu Chư Thiên thính pháp được đắc sơ quả Tu Đà Hườn thời gian là 3 tháng của nhân loại. Trong thời gian đó, mỗi ngày của nhân loại Đức Phật Ngài thể hiện thần thông gọi là Song Thông từ cung trời Đao Lợi đến cõi nhân loại trùng tuyên lại những mẫu đề cho Ngài Xá Lợi Phất, sau đó ĐĐ Xá Lợi Phất hình thành ra 7 bộ Abhidhamma ngày hôm nay. Như vậy ngày hôm nay, học Abhidhamma ta phải biết ơn Đức Phật và ĐĐ Xá Lợi Phất cho ta có duyên lành được học Vô Tỷ Pháp này. Bất cứ chúng ta học bộ môn nào khi đi vào luôn luôn có phần lễ bái Tam Bảo, nên bộ môn chúng ta đang học đây cũng không ngoại lệ: Đảnh lễ Phật Bảo, Đảnh lễ Pháp Bảo, Đảnh lễ Tăng Bảo. Khi chúng ta đi vào một quyển sách kinh chúng ta sẽ thấy rõ như vậy. Phật Bảo là chi? Tiếng Pali là Buddharatana là Phật Bảo, Buddha là Phật, Ratana là bảo. Do đó. Nói đến Phật Bảo là chúng ta phải biết đảnh lễ ân đức của Phật, nói đến Pháp Bảo là chúng ta nói đến ân đức của Pháp, nói đến Tăng Bảo là chúng ta nói đến ân đức của Tăng, nên gọi là Phật Pháp Tăng tam bảo. Như vậy, khi ta học Abhidhamma là ta học và hiểu được Pháp Thiện thì, xưa nay ta chỉ đảnh lễ tượng Phật đẹp bằng giấy, bằng đá, bằng kim loại v.v... đó là ta chỉ đảnh lễ hình tướng bên ngoài mà thôi. Do đó mỗi khi ta đảnh lễ Phật với một hình tượng bằng giấy, bằng đá, bằng sắt, hay bằng kim loại chúng ta phải đảnh lễ ân đức của Ngài chứ không phải hình tượng, đó là ý nghĩa của việc lễ bái. Chúng ta phải lễ lạy như vậy thì mới có giá trị của lễ lạy, còn không chúng ta chỉ tạo hình thức lễ lạy mà không có giá trị của phước báu. Chúng ta đã học Abhidhamma rồi thì, từ đây về sau khi chúng ta làm cái gì chúng ta phải nắm nội dung của việc làm, không nắm hình thức vì nội dung chứa chất liệu nhiều hơn là hình thức, một chút cũng khác biệt nhau. Bây giờ hai người cúi xuống đảnh lễ, một người đảnh lễ trong trạng thái hiểu biết và một người đảnh lễ trong trạng thái không hiểu biết rất khác nhau, một trạng thái thản nhiên, một trạng thái vui mừng cũng khác nhau, sự khác biệt trong việc làm phước báu cũng khác biệt, Đức Phật Ngài nói "xa thiệt là xa giữa mặt đất và mặt trời, xa thiệt là xa giữa bờ đại dương này với bờ đại dương kia, và xa thiệt là xa giữa một người tâm thiện với một người có tâm bất thiện, xa thiệt là xa chúng sanh ở các cõi giới với nhau, và xa thiệt là xa không so sánh được với chúng sanh ở trong đời và chúng sanh được giải thoát". Ân đức của Phật nói rộng thì có 9, nói hẹp thì có 3: - Giới đức trong sạch, - Bi đức, bi mẫn với chúng sanh - Trí đức thù thắng. Ân đức của Pháp Bảo, có hai: - Pháp học và pháp hành, pháp thành và pháp quả. Nương vào pháp học ta mở mang trí tuệ, nương vào pháp hành ta có đạo quả viên thành Ân đức của Tăng, có hai: Phàm Tăng và Thánh Tăng, người đang siển dương chánh pháp cho hàng tứ chúng. Chúng ta xong phần lễ bái Tam Bảo. Trước khi đi vào phần tâm tổng hợp, chúng ta nói phần giới thiệu bên ngoài là như thế nào : Xưa nay nói chúng ta học Phật Pháp, như vậy khi nói đến Pháp (Dhamma). - Pháp là chi? Trả lời là, Chi cũng là Pháp. - Trạng thái pháp ra sao? Trả lời là: Ra sao cũng là trạng thái của Pháp - Định nghĩa một pháp như thế nào? Trả lời là, có bốn ý nghĩa được gọi là pháp: 1. Trạng thái. 2. Phận sự. 3. Sự thành tụ. 4. Nhân cần thiết. Khi chúng ta muốn định nghĩa một pháp chúng ta phải có 4 yếu tố này mới được gọi là một pháp. 1. Pháp là chi, thí dụ, cái bàn, cái ghế, âm thanh, là một pháp. 2. Trạng thái của cái bàn ra sao? mình mô tả cái bàn ra sao, vuông, dài, tròn, chữ nhật, cao, thấp. 3. Phật sự của cái bàn ra sao? Có thể để làm bàn ăn, làm bàn viết v.v... 4. Nhân cần thiết của cái bàn là, gỗ, đinh, người làm ra cái bàn v.v... Thiện là một pháp, bất thiện là một pháp, tham là một pháp, sân là một pháp, si là một pháp. Tất cả đều là pháp, Như vậy thì chúng ta nói pháp là chi, chi cũng là pháp, trạng thái pháp ra sao, ra sao cũng là trạng thái của pháp. Như vậy, khi nói đến Pháp Thiện, Pháp Thiện là một pháp, 1. Trạng thái Pháp Thiện là tốt, là lành, là đẹp, những cái đó là thiện 2. Phận sự của Thiện là ngăn cản điều xấu, ngăn cản điều không tốt 3. Sự thành tựu là an vui, hạnh phúc 4. Nhân cần thiết là phải có trí tuệ để biết làm việc thiện. Do đó nói đến Pháp Thiện cũng là một pháp, những trạng thái, phận sự, thành tựu và, nhân cần thiết, được giải đáp, được định nghĩa đó là một pháp trong Abhidhamma. Từ đây về sau, khi chúng ta nói Pháp là chúng ta đang nói tất cả phải bao gồm cả bốn ý nghĩa đó mới thành tựu một Pháp có ý nghĩa. Khi nào chúng ta nói một Pháp mà không bao gồm đủ bốn ý nghĩa đó là nói sai về Pháp đó, đó là lỗi của mình. Thí dụ, ngồi thiền là một pháp. 1. Trạng thái ngồi thiền ra sao, 2. Phận sự ngồi thiền ra sao 3. Sự thành tựu của thiền ra sao 4. Và nhân sanh ra ngồi thiền ra sao. Chúng ta phải nói rõ mới thành tựu một ý nghĩa của một loại Pháp mình muốn nói tới. Cũng vậy, khi qúi Phật tử đi vào Pháp Hành Thí dụ, qúi Phật tử đang ngồi thiền hay đi hành thiền, qúi Phật tử nghe một pháp hay nghe một âm thanh thì qúi Phật tử phải biết: - Thứ nhất, trạng thái của âm thanh, - Thứ hai, phận sự của âm thanh, - Thứ ba, sự thành tựu của âm thanh, - Thứ tư, nhân cần thiết sanh ra âm thanh. Khi qúi Phật tử nghe một âm thanh quen thuộc, như tiếng quạ kêu thì âm thanh đó qúi Phật tử quyết định được nó, nhưng, thí dụ qúi phật tử đang ngồi thiền, nghe tiếng mở cửa qúi phật tử biết đó là tiếng mở cửa, nghe tiếng bước chân, biết có người vào phòng, nhưng không biết người đó là ai thì qúi phật tử niệm "nghe" chứ không niệm "người". Do đó khi ngồi thiền qúi Phật tử không biết người đó là ai thì không thể niệm người mà niệm nghe vì không định nghĩa "người". Biết có người mở cửa bước vô thì: 1) Trạng thái người đó quen, không quen, qúi Phật tử không biết được vì đang ngồi thiền thì mình nhắm mắt. 2) Phận sự người đó vô là báo tin, đưa thư. 3) Sự thành tựu tin được biết bởi người đó, thơ được nhận bởi người đó bởi người đó. 4) Nhân cần thiết là điều quan trọng, tin khẩn cấp, do đó người đó phải xuất hiện. Qúi Phật tử không biết được người này, do đó "người" không thành tựu. Nếu qúi Phật tử mở mắt là không thiền, là gián đoạn thiền. Nếu tiếp tục thiền để không gián đoạn thiền thì không biết được người đó thì lúc đó qúi Phật tử chỉ biết đó là một Pháp. Do đó, nó cho đời sống chúng ta một ý nghĩa gì, trạng thái, phận sự, nhân cần thiết, có những câu chuyện đến với mình không bao gồm đủ bốn trạng thái để trở thành một pháp thì niệm "nghe, nghe, nghe.., hoặc niệm thấy, thấy, hoặc niệm ngửi ngửi ngửi....." Một người đưa một chén thức ăn cho qúi Phật tử ăn, họ hỏi "có ngon không? Trả lời "ngon". Có ngọt không? Trả lời: "ngọt". Họ hỏi vị đó là vị gì thì không giải thích được vì nhiều vị trộn chung nhau. Cho nên qúi Phật tử chỉ định vị đó là Pháp, nếu muốn nói được vị đó thì phải định nghĩa bốn trạng thái của nó, Nếu không đủ bốn trạng thái mà vẫn nói nó là gì thì phạm phải lời nói không đúng không chân thành. Do đó, từ đây về sau học Pháp qúi Phật tử phải nắm được bốn ý nghĩa đó mới nói được một Pháp đầy đủ được, nếu không bao gồm được bốn ý nghĩa mà nói thì, lời nói không đúng không chân chính. Đó là Sư muốn hướng dẫn chút xíu để qúi Phật tử ghi nhớ để áp dụng khi ngồi thiền. Khi qúi cô ngồi thiền mà nghe nhưng không biết được âm thanh rõ ràng về âm thanh đó, trạng thái phận sự thành tựu và, nhân cần thiết, mà mình quyết định được âm thanh đó rõ ràng hay mình định nghĩa được âm thanh đó rõ ràng thì định nghĩa theo sự quyết định của mình, còn nếu chúng ta không định nghĩa được bốn trạng thái rõ ràng thì chúng ta chỉ niệm một "pháp" mà thôi, Lúc đó âm thanh là một "pháp": 1. Trạng thái là sao, không rõ, lờ mờ, 2. Phận sự đến tai mà không nắm bắt được 3. Sự thành tựu của âm thanh là không hiểu, không biết 4. Âm thanh được nghe có yếu tố cần thiết nào, có thần kinh nhĩ, có sự chú ý, nhưng không biết được pháp đó là gì. Do đó âm thanh đến tai, không rõ, mờ, không nắm bắt được, không hiểu không biết, yếu tố cần thiết là có thần kinh và có sự chú ý thì âm thanh đó chỉ là một Pháp và mình không cần về chi tiết. Rồi khi qúi Phật tử biết được rõ ràng chi tiết thì qúi phật tử nói rõ người này là người quen hay là người không quen, đến với ý nghĩa gì, đến để báo tin hay đưa thơ, rõ ràng chi tiết như vậy lúc đó qúi phật tử phải mở mắt là bị gián đoạn dòng thiền, còn nếu muốn tiếp tục dòng thiền thì tiếp tục nhắm mắt và không để ý tới nữa thì chỉ niệm 'một pháp' thôi. Thêm một thí dụ nữa, qúi phật tử đang ngủ, có nhiều người ngủ hả miệng, một người khác nghịch đem một miếng muối thả vào miệng người ngủ, thì người đó chép chép cái miệng rồi nuốt nuốt, mắt vẫn không mở vẫn tiếp tục ngủ, một hồi người đó thức giấc, bèn hỏi người đó 'nãy giờ ngủ có ngon không? trả lời 'ngủ ngon', hỏi 'có biết gì không?/ trả lời 'không biết gì hết'. Như vậy, trong khi ngồi thiền thấy một pháp mà không rõ bốn yếu tố thì chỉ biết đó là một pháp không thôi. Học Abhidhamma chúng ta phải biết là, khi qúi phật tử ngồi thiền nó đến hai trường hợp, một pháp rõ biết và một pháp không rõ biết thì niệm cái nào? Trả lời là, không cần thiết để ý, chỉ ghi nhận "nghe nghe ..." bởi vì nếu để ý là làm trở ngại dòng thiền của mình Do đó khi ngồi thiền dù có được nghe âm thanh rõ biết và nghe âm thanh không rõ biết, dù mình biết người gây ra âm thanh hay mình không nhận ra người gây ra âm thanh, thì trong khi ngồi thiền những âm thanh đó đều không cần thiết để ý đến. Nói đến Pháp thì Pháp có hai: Tục đế và Chân đế 1). Tục đế Tục là phổ thông thuộc về thế gian. Đế là sự thật Như vậy thì pháp tục đế là pháp sự thật thuộc về thế gian ta gọi là pháp Tục Đế 2). Chân đế là pháp chân thật, không thay đổi, một sự thật như thật không thay đổi ta gọi là pháp Chân Đế. Như vậy, khi ta học pháp Tục Đế những pháp như thật thuộc về thế gian là những pháp thuộc về Tạng Kinh, Tạng Luật, và những pháp người ta nói ra mà không phạm luật, không nói dối, không trộm cắp (có giữ giới), thì đó gọi là pháp Tục Đế. Pháp nào là pháp Chân Đế: 1. Pháp Tứ Đế. 2. Pháp Siêu Lý. Pháp Tứ Đế gồm có 2: 1. Pháp Tứ Đế thuộc về phàm nhận biết được gọi là Tứ Diệu Đế. Pháp Tứ Đế (Catudisa Sacca) (Cattaro Sacca) (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) 2. Pháp Tứ Đế thuộc về Thánh chứng đắc được gọi là Tứ Thánh Đế (Catu Ariya Sacca) Catu = tứ, Ariya = Thánh, Sacca = Đế Pháp cho người phàm nhận biết được là, khi chúng ta nói chuyện trong đời này, tôi, anh, chị, cô, bác, mình giữ giới không sai trật thì khi đó mình đang nói về Tục Đế. - "Hôm qua tôi đi chợ thấy chị ngoài đường" là Tục Đế, - "Tôi thấy bà đó đi vô chùa" là Tục Đế, những lời nói này là của phổ thông của thế gian. Qúi Phật tử hiểu biết Tứ Đế một cách phàm phu, còn Đức Phật, chư vị Thánh Văn, Alahán hiểu Tứ Đế một cách Thánh Đế. Cái khổ trong đời này có 8 là, sanh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tấn hội, cầu bất đắc, ngũ uẩn là nhân sanh khổ - Sự thật về sanh - Sự thật về già - Sự thật về bệnh - Sự thật về chết Do đó, Tứ Đế này về Khổ mình không biết, Nhân Sanh Khổ mình không biết, Tập Khổ mình chưa thấy, Diệt Khổ mình chưa thấy, Đạo Đế mình chưa hành mình chưa rõ. Còn các bậc Thánh, nhị tam tứ quả, sơ đạo, nhị đạo, tam đạo, tứ đạo, sơ quả, nhị quả, tam quả, tứ quả, được thấy, được chứng đắc, được rõ biết, như họ đã có chứng đắc. Do đó mình biết Tứ Diệu Đế, còn các Ngài là Tứ Thánh Đế. Siêu Lý là gì? Pháp môn Siêu Lý là một pháp Chân Đế (Paramattha) Paramattha gồm hai nghĩa: Parama + Attha kết hợp lại thành một từ ngữ. Parama là cao siêu Attha là nội dung, là lý lẽ trong nội dung, nội dung cao siêu, ta gọi là siêu lý. Như thế được gọi là pháp Siêu Lý, có ba ý nghĩa: 1. Thứ nhất, đặc biệt không thay đổi. 2. Thứ hai, cảnh của trí tuệ cao siêu hay còn gọi là đối tượng của trí tuệ cao siêu. 3. Thứ ba, chủ của mọi Pháp Chế Định Nên được gọi là Siêu Lý. Thế thì, ở thế gian này chúng ta được nghe mọi pháp đều là Vô Thường sanh diệt đổi thay, không có pháp nào tồn tại như một, tại sao pháp Siêu Lý dám nói là đặc biệt không thay đổi, bất chấp định luật vô thường, đối diện pháp vô thường mà không sợ thay đổi. Pháp Siêu Lý có bốn pháp: 1. Thứ nhất là Tâm. 2. Thứ hai là Tâm Sở, thành phần phụ thuộc của Tâm 3. Thứ ba là Sắc Pháp 4. Thứ Tư là Niết-bàn Nói tới Pháp Siêu Lý là phải nói tới bốn pháp, Tâm, Tâm Sở, Sắc Pháp và Niết-bàn. Như vậy, nói tới Tâm, đặc tính của Tâm đặc biệt không thay đổi là: quá khứ, hiện tại và vị lai, như tâm tham thì qúa khứ, hiện tại, vị lai, đặc tính của tham là dính mắc vào đối tượng không thay đổi. Tâm thấy cảnh dính mắc liền đó là tính tham, quá khứ, hiện tại, vị lai, nó cũng dính mắc. Như vậy thì quá khứ của tâm là biết, hiện tại của tâm là biết, vị lai của tâm là biết, không thay đổi, đó là Tâm Siêu Lý. Như vậy, tâm bất thiện thì đặc tính của nó biết điều xấu Tâm thiện, đặc tính của nó biết điều tốt Tâm phàm, đặc tính của nó là biết chuyện thế gian Tâm Thánh, đặc tính của nó là biết chuyện xuất thế gian Qúi Phật tử không thể nào nói, tâm Thánh mà dính mắc chuyện thế gian được, bởi vì đặc tính của tâm Thánh là giải thoát, đặc tính của tâm phàm là dính mắc chuyện trong đời, tâm bất thiện là nghĩ chuyện xấu, tâm thiện là nghĩ chuyện tốt. Quá khứ, hiện tại, vị lai, đặc tính của tâm Siêu Lý là không thay đổi là biết cảnh. Đặc tính không thay đổi của tâm là biết cảnh Đặc tính của tâm sở là thành phần phụ thuộc của tâm. Có một ly nước, bỏ chanh vào, gọi là nước chanh, thêm đường vào, gọi là nước chanh đường, bỏ đá vào, gọi là nước đá chanh đường. Như vậy thì ly nước là nguyên thủy của nó, bỏ gì vào thì tên được thay đổi. Tâm là nguyên thủy của nó, + tham thì gọi là tâm tham + bỏn xẻn = tâm tham bỏn xẻn Bây giờ; Tâm thêm sự thấy sai gọi là tà kiến thì gọi là tâm tà kiến Nguyên thủy của nó là tâm, cộng thêm tham, bỏn xẻn, tà kiến là thành phần phụ thuộc của tâm. Khởi nguyên đầu tiên tâm là một đơn vị độc lập nhưng bỏ thêm nhiều cách vô những thành phần phụ thuộc của tâm sở. Tâm, khi qúi phật tử gặp đối tượng không ưa thích thì qúi phật tử sân, mà nếu đối tượng mình thua họ thì tật đố, mình ghét họ vì họ hơn mình, mạnh hơn mình, giàu hơn mình thì đó là tâm sân tật đố Tâm + Sân + Tật Đố. Thì những, sân, tật đố gọi là thành phần phụ thuộc của tâm hay gọi là tâm sở. Một chiếc xe gồm 4 bánh, 1 tay lái, kèn, thắng, bao gồm lại thành một chiếc xe. Do đó khi một tâm không thể có một đơn vị độc nhất của nó trong đời, nó phải có nhiều thành phần kết hợp lại để có được tên gọi một cái tâm ở trong đời được. Như vậy khi qúi Phật tử nói tâm này là tâm tham, tâm này là tâm sân, tâm này là tâm si thì phải có những thành phần phụ thuộc của tâm là tham, sân, si kếp hợp với tâm hiện bày được gọi tên. Thí dụ một người nam, một người nữ thì phải có những gì để thành người nam người nữ phân biệt nhau mới được, đó gọi là thành phần của con người, thành phần phụ thuộc của tâm gọi là tâm sở, không thể nói một cách độc lập của nó được. Vậy thì tâm có mặt phải có phần phụ thuộc gọi là tâm sở kết hợp với nó được gọi là phụ thuộc của tâm. Như vậy tâm sở, quá khứ, hiện tại, vị lai có đặc tính của nó là không thay đổi là: Tứ Đồng: 1. Đồng sanh với tâm, 2. Đồng diệt với tâm, 3. Đồng nương một thần kinh với tâm, 4. Đồng biết một cảnh với tâm Nên gọi là tâm sở. Một tâm sở có 4 nghĩa, tứ đồng: đồng sanh với tâm không trước không sau, đồng diệt với tâm không trước không sau, đồng nương vào một thần kinh với tâm không sai biệt, đồng biết một cảnh với tâm, đó là tứ đồng. Như thế, bốn bánh xe này nó cùng ra một lược với chiếc xe, tay lái cùng ra một lược với chiếc xe, cái kèn ra một lược với chiếc xe, cái thắng ra một lược với chiếc xe, đó là những phụ tùng cùng ra một lược với chiếc xe, chiếc xe được gọi tên, những tâm phụ thuộc (tâm sở) với tâm cùng ra một lược với tâm thì tâm được gọi tên. Vậy thì khi qúi Phật tử có một tâm biết cảnh có nhiều yếu tố kết hợp vô để tâm tự biết cảnh một cách đầy đủ hơn, chớ không phải một mình nó tự biết cảnh được, không thể một mình nó tự biết cảnh được. Một người Phật tử đơn giản là người đơn tính, người đơn tính thì đời sống nhẹ nhàng, nhiều an vui Một người đa giản là người đa tính thì đời sống nhiều rắc rối , nhiều hệ lụy. Đây là nói về tâm lý, khi con người sống đơn giản người đó đi pháp hành dễ mau thành công, người sống đa giản đa tính đi pháp hành khó khăn có nhiều trở ngại. Trong đời sống hàng ngày trên thực tế người mà sống đơn giản lúc nào cũng cảm thấy nhẹ nhàng không có sự cố chấp, không có sự dính mắc, không có sự câu nệ, không có sự chấp nê, người sống thong thả thoải mái, ung dung tự tại, tất cả bỏ hết, đó là người đơn giản. Còn cái gì cũng chấp vô, đó không phải là người đơn giản, mà là người đa giản. Khi vô ngồi thiền, khi nghe nhận biết nghe, khi tê nhận biết tê, nhưng có người không chịu lại phàn nàn than thở "tê quá là tê, tê ghê lắm" đó là người khó thành đạt. Bây giờ là giờ hành thiền. Sư huớng dẫn qúi Phật tử cách hành thiền. 1) Thứ nhất. Nếu qúi Phật tử không quen ngồi kiết già, hay bán già, hay là trạng thái ngồi hai chân đè lên nhau, thì ngồi ngang hai chân phải trái bằng nhau không cao không thấp, đó là thứ nhất. 2) Thứ hai. Hai bàn tay để tay dưới tay trên, tay nào nằm trên tay nào nằm dưới cũng được. 3). Muốn tập cho mình giữ chánh niệm để không bị thất niệm không bị mất niệm thì để hai ngón tay cái đụng vào nhau, khi ngồi một thời gian bị hôn trầm tay sẽ rớt ra, do đó mình giữ hai tay đụng vào nhau là để giữ chánh niệm chứ thực ra nó không có ý nghĩa gì cả. Nếu như qúi Phật tử ngồi không quen thì hai tay để thả xuôi giống như Ngài Mahasi, qúi Phật tử để hai tay xuống rờ hai chân của mình để giữ chánh niệm. Thì khi qúi Phật tử để tay như vậy là để giữ chánh niệm. Ngài mahasi-sayadaw 4) Qúi Phật tử giữ lưng cho thẳng, không cho phép ngồi thụng, cố gắng ngồi thằng, ngồi trên ghế cũng được nhưng làm sao cho lưng mình thẳng, khi nào thấy mình rơi vào tình trạng ngồi thụng thì nhẹ nhàng sửa lại, cái cổ của mình cũng không gục xuống, cái đầu phải thẳng, nếu đầu gục xuống thở không được đều. Bắt đầu qúi Phật tử thở vô thở ra bình thường, 1). Đầu tiên qúi Phật tử nhớ niệm "Con xin quy y Phật, con xin quy y Pháp, con xin quy y Tăng" 3 lần, 2) Kế đến, niệm giới không trộm cắp không sát sanh không tà dâm, 3) Kế đến, rải tâm từ "mong cho tôi luôn được an vui, mong tất cả chúng sanh luôn được an vui, mong tôi không oan trái với ai, mong rằng tất cả chúng sanh không có oan trái". 4) Rải tâm từ xong thì bắt đầu quán niệm "Tất cả chúng sanh có sự chết cuối cùng, tôi cũng có sự chết cuối cùng. Sau khi hoàn thành bốn pháp trên, qúi Phật tử bắt đầu niệm hơi thở vô hơi thở ra, theo dõi hơi thở vô hơi thở ra, thở vô biết thở vô, thở ra biết thở ra *** Sau một tiếng lớp thiền chấm dứt. Sư nhắc lại bài học hôm nay. Khi học Abhidhamma ta biết được, cái gì ở trong ta, cái gì ngoài ta, và cái gì ta muốn thành đạt. Ngay khi qúi Phật tử sắp ho, qúi Phật tử biết trong ta muốn ho, sắp sửa ho, bắt buộc phài ho, không cản được ho, là cái gì trong ta. Khi qúi Phật tử ho và thấy được cái gì trong ta giải đáp được rồi. Và ho là một pháp, trạng thái ho ra sao, phận sự của ho ra sao, sự thành tựu của ho ra sao và nghe được tiếng ho ra sao, ta nắm được ngay trong buổi ngồi thiền này. Cái gì ngoài ta, ta nghe được âm thanh bên ngoài ta là ho, đó là cảnh duyên đến với ta, tâm ta được nghe, ta chú ý tâm đang nghe, cảnh duyên đến ta, ta nghe, mà nếu ta là người đơn tính khi nghe gát bỏ, nếu ta là người đa tính, ta sẽ nghĩ ai đang ho vậy, thấy liền ngoài ta. Cái gì ta muốn thành đạt, ta muốn chú tâm trong đề mục thiền, ta theo dõi hơi thở, ta bỏ trạng thái muốn nghe, ta không có muốn nghe, hay trạng thái ta đang muốn ho, trạng thái bị ho, ta phải buông bỏ điều đó và trở lại nhìn vào hơi thở, cái gì ta muốn thành đạt là phải chú tâm. Như vậy là qúi Phật tử áp dụng được pháp Abhidhamma. Trong khi chúng ta ngồi thiền thì chúng ta thấy cái gì đặc biệt không thay đổi đó là tâm, tâm của ta hay để ý hay nghe, hay chú ý để được biết tất cả, ôm hết tất cả, đó là người đa tính. Sau khi ta học bài pháp Abhidhamma xong ta ngồi thiền để áp dụng liền, phân tách ra liền, thấy liền, cái đó là ứng dụng được Pháp Học vô Pháp Hành. khi ngồi thiền: 1- Thấy trong ta là chân tê, tâm ta biết khó chịu, 2. Tâm ta biết ngoài ta là chân ta đang tê, 3. Tâm buông bỏ cái chân tê 4. Cái gì ta muốn thành đạt, là chú tâm vào hơi thở, theo dõi hơi thở, bỏ tê không để ý tới cái tê, tập trung trở lại hơi thở. https://phathocvandao.blogspot.com/2021/05/phap-hoc-va-phap-hanh-tong-hop-noi-dung.html